Hồn phố

Hồn phốTrong thời buổi này, người như anh không phải là nhiều. Chúng tôi hay ngồi đàm đạo với nhau về chuyện nghề, về kiến trúc. Trong những cuộc trà dư tửu hậu này bao giờ anh cũng là người nói say sưa nhất.

“Cái cần bảo tồn nơi đây không phải là bảo tồn những ngôi nhà mà là lối sống”  – Wiliam Logan

Bạn tôi, một tiến sĩ kiến trúc gốc Hà Nội, chuyên nghiên cứu về hình thái học đô thị. Thời gian gần đây anh thường được mời đọc tham luận tại nhiều hội thảo khoa học về quy hoạch đô thị ở trong nước và cả ngoài nước. Tôi quý anh ở cách nghĩ, cách sống, với bạn bè thì hết lòng, với công việc thì nghiêm túc, cẩn trọng và rất trung thực. Trong thời buổi này, người như anh không phải là nhiều. Chúng tôi hay ngồi đàm đạo với nhau về chuyện nghề, về kiến trúc. Trong những cuộc trà dư tửu hậu này bao giờ anh cũng là người nói say sưa nhất. Theo anh, đô thị như một cơ thể sống, nó cũng phải thích nghi với các yếu tố tác động để có thể tồn tại theo thời gian. Vì thế, để đô thị phát triển bền vững trong quá trình đô thị hóa, người làm quy hoạch, người quản lý quy hoạch phải biết hình thái đô thị sẽ phát triển ra sao, như thế nào trong môi trường cảnh quan, thiên nhiên mà nó sinh ra, tồn tại… Không hiểu được đô thị, không nhận diện được nó thì làm sao tìm ra được bản sắc riêng cho từng đô thị. Tôi đồng ý với anh rằng, muốn “nhận diện” được thì phải “hiểu”. Nhưng để hiểu được đầy đủ sâu sắc một đô thị, miền đất nơi sinh ra đô thị ấy lại là vấn đề khác.

Tôi không nghiên cứu sâu về đô thị học nên không có tham vọng khi viết về một lĩnh vực đa ngành và quá rộng này. Nếu có, thì chỉ là những gì rất bé nhỏ, vụn vặt, đời thường mà tôi chắt chiu cảm nhận được ở Hà Nội, thành phố thân yêu nơi tôi đã lớn lên và đi qua quá nửa cuộc đời. Dominique Delaunay, một học giả người Pháp nghiên cứu về Hà Nội có cái nhìn: “Hà Nội nhắc nhở chúng ta rằng sự vĩnh cửu dựa trên những cái nhất thời. Rằng tâm hồn được thể hiện rõ nét nhất thông qua những phương tiện thường nhật, giản dị”. Tôi tán đồng với vị học giả này .

Cuối những năm 50 và 60, gia đình tôi sống trên tầng hai một ngôi nhà có kiến trúc kiểu Pháp ở phố Trần Phú. Ngay sát đường tầu hỏa nên ngày cũng như đêm chẳng mấy khi vắng tiếng còi tầu hú. Khi ấy, tôi mới 10 tuổi, nhưng đã tự đi học một mình, dù trường ở tận phố Nguyễn Thái Học. Cái phố tôi ở là phố cũ, toàn nhà biệt thự và công sở nên yên tĩnh lắm, chỉ có đoạn phố ngắn phía đường tầu hỏa có nhà tôi, giáp đường Phùng Hưng nhìn sang phố Hàng Da, chếch ra Hàng Bông là nhộn nhịp đôi chút vì có hoạt động thương mại. Đường Trần Phú là đường trồng sấu. Những cây sấu đại thụ có đến trăm tuổi thân xù xì, gốc to hai người ôm, vỏ đen nhánh, tán rợp xum xuê. Mùa hoa sấu cả phố như được ướp hương. Hương hoa sấu nhẹ nhàng tinh khiết chứ không nồng như hoa sữa. Cứ mỗi buổi sáng vào mùa hoa là đường phố như phủ trắng những bông sấu li ti. Những đêm hè khó ngủ, tôi thường được bà cho ra ngồi hóng mát ở ban công nhìn xuống đường. Trong tiếng xào xạc của những nhành lá sấu là tiếng gậy khua đều đều: “Lốc cốc… lốc cốc” của ông già mù tẩm quất với tiếng rao khàn khàn, khê nồng, trầm đục: “Quất ơ …ơ”. Trông thấy ông là tôi sợ, không hiểu sao, nhưng tôi lại thích nghe tiếng rao của ông. Bà tôi bảo lão mù thế mà tẩm hay lắm, tay lão động vào đâu là xương cốt kêu rưng rức. Bẵng đi một thời gian, tôi không còn nghe thấy tiếng “quất …ơ …ơ” ấy nữa. Đêm hè, cái phố như rộng ra vì thiếu tiếng gậy khua lốc cốc! Nghe bà bảo lão chết rồi, cô đơn sau một trận cảm gió. Rồi những đêm đông, ngoài đường vắng lặng, chỉ có tiếng gió đuổi nhau ào ào trên từng rặng sấu, bỗng da diết dài hun hút một tiếng rao con gái khắc khoải gọi mời: “Ai khúc ơ … khúc ơ!”. Thi thoảng tôi cũng được bà lấy ra đồng năm xu mua cho một cái bánh khúc nóng hổi ngoài phủ lớp xôi nếp trắng tinh. Năm tháng trôi đi, tôi cũng dần lớn khôn và vào học trong trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi rồi sang Trung Quốc. Gia đình tôi cũng đã chuyển nhà không ở phố Trần Phú nữa… 

Thế nhưng, những kỷ niệm nho nhỏ về đường phố thơm mát mùi hoa sấu này, cùng những tiếng rao đêm cứ ngày càng sâu đậm trong tôi. Bây giờ đã qua cái tuổi tri thiên mệnh, yên phận với cuộc đời với một mái nhà giản dị của riêng mình trong con ngõ nhỏ đầu phố Kim Ngưu, tôi vẫn thường lang thang trên những con phố thân quen cua Hà Nội mỗi khi rảnh rỗi như để tìm lại kỷ niệm một thời của mình. Con người ta mỗi tuổi lại có một cách nhìn khác. Với tôi, giờ chỉ thích nhìn ngang, bởi nhìn lên cao lại thấy tức mắt, vì sự lộn xộn vô lối của thứ kiến trúc thời mở cửa. Những đường dây điện, điện thoại… chằng chịt, những dàn ăngten tua tủa như chọc nát bầu trời. Nhìn xuống thấp một chút là mê hồn trận biển quảng cáo chữ tây to hơn chữ ta, cái dựng đứng, cái nằm ngang… mầu sắc chói chang. Thế nhưng nếu quên đi cái tầm cao ấy, chỉ nhìn ngang thôi, hay nhìn xuống, ta lại như được sống trong cái thế giới thực của mình. Những con phố của Hà Nội xưa vẫn thế, chẳng to ra mà cũng chẳng bé đi. Cái mạng lưới đường ô cờ mà người Pháp vạch ra đầu thế kỷ trước vẫn thế, dù đường đã được trải nhựa thêm bao lần, vỉa hè đã được đào lên lấp xuống bao lần để đặt đường ống thoát nước… Và trên tất cả, nhịp sống, nhịp sống sôi động của khu Kẻ Chợ xưa vẫn còn hiển hiện đâu đây. Đường phố vẫn ồn ào từ sáng sớm đến đêm khuya. Đi trong phố Hàng, ta vẫn bắt gặp những người phụ nữ của Tú Xương đi bán dạo, từ nồi ngô luộc, khoai luộc đến xôi vò, chè đường… Cuộc sống là vĩnh cửu, con ngươi ở đây sống và hoạt động hồn nhiên như tự thân nó phải thế. Đi trên phố cổ Hà Nội, ta có thể rất dễ dàng ngồi vào một góc nào đấy trong nhà, hay ngoài vỉa hè để mà nhấm nháp ly cà phê đặc sánh hay thưởng thức một chén rượu Vân chính hiệu với mực nướng than hoa chấm tương ớt. Bây giờ Hà Nội đổi thay nhiều, cách sống, lối sống cũng nhiều thay đổi. Đó là quy luật. Nhưng hình như có một sự bảo thủ đến kỳ lạ, là lối sống ở khu phố cổ hầu như ít biến đổi. Cái ồn ào náo nhiệt ở đây ít nơi nào trong thành phố có được. Dẫu kiến trúc hiện hữu của khu phố chẳng còn mấy cái là cổ, nhưng không gian đô thị cổ, lối sống của một thời vẫn còn rõ nét, sống động lắm. Giáo sư người Đức Arnold Koerte khi nghiên cứu hoạt động xã hội của khu phố cổ đã phải thốt lên: “Thành phố này không cần đến bất cứ một mẹo vặt nào để tái tạo lịch sử…”. Rồi ông khôi hài dẫn một câu của Chua Beng Huat (giáo sư trường đại học Singapore): “Một ngày nào đó có thể chúng ta sẽ phải trả tiền cho những con người trên đường phố này để hàng ngày họ tái hiện lịch sử”. Xin cám ơn tình cảm của ông với khu phố cổ Hà Nội. Nhưng thưa ông, tại khu phố cổ này người dân chúng tôi vẫn sống, vẫn sinh hoạt và buôn bán cũng chẳng phải là để tái hiện lại lịch sử, mà đơn giản chỉ là cách sống ấy, lối sống ấy đã trở thành truyền thống, trở thành nét văn hóa của người Tràng An hôm nay rồi. Còn tôi, tôi gọi đó là “hồn phố”.

Sáng chủ nhật, trời se lạnh và hanh hao nắng. Tôi ngồi bên ly cà phê đặc sánh trong quán Hói trên đường Bà Triệu cùng một người bạn ở báo VN. Tôi đưa anh xem bài viết của tôi loanh quanh về vấn đề đô thị. Đọc xong anh khen, nhưng bỗng anh nhướng mắt hỏi: “Này ông, có hồn quê, hồn phố, thế có hồn khu đô thị mới không?”. Tôi hơi ngớ ra, rồi cười xòa…

KTS Phạm Thanh Tùng

Bài viết liên quan