Tốt nghiệp xong là… thất nghiệp
Không cần nói chuyện to tát xa xôi ở mức độ toàn xã hội, câu chuyện quanh mâm cỗ quê tôi, một vùng quê ngoại thành Hà Nội cũng đã đủ nóng ran lên vì tình trạng thất nghiệp của thanh niên trong xã. Rất nhiều trong số đó đã tốt nghiệp đại học từ đủ các loại trường, công lập, dân lập, thậm chí cả đi du học nước ngoài về.
Tình hình này hẳn không chỉ diễn ra ở một làng nào đó, mà ở khắp nơi, từ thành phố đến nông thôn.
Tham gia một vài diễn đàn của các học sinh, sinh viên trên mạng xã hội, tôi cũng nhận thấy tình trạng “tốt nghiệp xong là… thất nghiệp” ngày càng phổ biến. Nói thì bảo tàn nhẫn, nhưng có những cháu mới chỉ chia sẻ việc chọn trường sau kỳ thi đại học thôi, đã thấy hai chữ “thất nghiệp” hiển hiện: lao vào những ngành nghề đang quá thừa, học chỉ để có mác đại học, mà không vì nghề nghiệp tương lai…
Có thể theo con số thống kê tỷ lệ thất nghiệp trình độ đại học là khá thấp (khoảng 4%) và tương đương nhiều nước khác, nhưng có con số khác cũng rất đáng suy nghĩ: lượng sinh viên làm trái nghề lên tới 60%. Chúng ta cần nhìn thẳng vào một sự thật là về thực chất, làm trái ngành được đào tạo thì cũng không khác thất nghiệp là mấy, vì tính trên bình diện toàn xã hội, đó là một sự lãng phí.
Nếu để ý, sẽ thấy lượng sinh viên ra trường đi làm những việc “mang tính chân tay” như giao hàng, thậm chí rửa bát, quét dọn… ngày càng đông. Có cậu thanh niên kể với tôi rằng sau khi tốt nghiệp ngành kỹ thuật, cậu xin việc ở một hãng viễn thông và đã làm việc leo cột điện chỉ để mắc dây đến 4, 5 năm nay và không hề có cơ hội thay đổi. Xin lưu ý rằng đây là một công việc mà một công nhân kỹ thuật làm được rất tốt, có khi còn tốt hơn kỹ sư.
Tốt nghiệp xong rồi... thất nghiệp? Ảnh minh họa |
Vậy thì tại sao cứ phải học đại học để cho tốn kém, trong khi ra trường lại đi làm giao hàng và trèo cột điện?
Quay trở lại với câu chuyện bên mâm cỗ, tôi nghe thấy họ hàng bảo bây giờ mỗi nhà cũng chỉ hai con, nên điều kiện lo cho đi học tốt hơn trước. Nhà nào cũng cố như thế, làm cho mặt bằng chung về khía cạnh tâm lí “con không đại học không được”, còn công việc ra trường tính sau.
Và chính cái “tính sau” ấy đã làm cho xã hội chúng ta hiện nay đầy ngập cử nhân, kỹ sư thất nghiệp – số lượng thì nhiều mà chất lượng thì thật khó nói: thường là không đáp ứng được công việc, đào tạo đi (tiếp) thì khó mà đào tạo lại cũng dở.
Sự lãng phí đó nó còn ghê gớm hơn nhiều đối với các gia đình cố gửi con đi học nước ngoài khi các em không đỗ đại học trong nước. Làng quê tôi gia đình có hai con đi du học còn không hiếm, thì một con đi học nước ngoài có mà nhiều nhan nhản. Một ông chú họ bác sỹ về hưu của tôi từng phải than: “Khổ, chúng nó học trong nước bằng tiếng Việt còn không xong, thì nói sao đến học bằng tiếng Tây!”
Và đúng thật, ngoài tấm bằng đại học chữ Tây, còn thì một câu tiếng Anh nói tròn vành rõ nghĩa các cô cậu cũng nói không xong và kết quả là thất nghiệp vẫn hoàn thất nghiệp. Nghịch lý: khi người ta gửi con đi du học những mong con thành “công dân toàn cầu” thì giờ đây lại thành “công dân toàn làng”, sau mấy năm tiêu tiền tỉ mỗi bạn, lại tiếp tục ăn bám bố mẹ, gia đình.
Làm công nhân thì sao oai oách được?
Đối mặt với câu chuyện này trong phạm vi gia đình, tôi thường nói với con rằng nếu con không học lên đại học được, cũng không sao, con có thể chọn một nghề và học cho tinh thông; đồng thời cũng kể cho cháu nghe về tình hình thiếu công nhân lành nghề và thừa kỹ sư, cử nhân hiện nay. Tất nhiên gia đình cũng phải lường trước một điều rằng: hệ thống các trường dạy nghề ở Việt Nam hiện nay quá èo uột và chất lượng suy giảm cực nghiêm trọng.
Nhìn lại cách đây 30 năm, khi tốt nghiệp phổ thông tôi đã đi học trung cấp cơ điện, khá đông học viên và chất lượng đào tạo hoàn toàn không tệ. Theo những người đi trước thì thời gian trước đó, những năm 1970, 1980 có thể nói dạy nghề ở Việt Nam còn được gọi là khá đến mức tốt.
Rất nhiều người thợ lành nghề được đào tạo trong thời gian đó đã trở thành những người không thể thiếu trong nhiều ngành công nghiệp, sản xuất. Ngay như ông cậu ruột của tôi cũng tốt nghiệp trung cấp cơ điện, tiến bộ lên thành trưởng phòng kỹ thuật của một xí nghiệp giày lớn của Việt Nam, quan trọng hơn ông còn là “công trình sư” dựng lên dây chuyền sản xuất của rất nhiều nhà máy sản xuất giày từ Nam chí Bắc trong thập kỷ 1990.
Một trong những nguyên nhân chính cho tình trạng èo uột của những trường dạy nghề, là từ thái độ của xã hội, chỉ đổ dồn vào đại học mà quên dạy nghề. Mỗi năm đến mùa tuyển sinh, báo chí nóng ran lên về thi tốt nghiệp và đại học, đôi chỗ chỉ có ý kiến hết sức yếu ớt của một vài chuyên gia, là cần nhìn nhận lại nhu cầu phân luồng học nghề cho các cháu từ hết lớp 9, thì chẳng mấy ai quan tâm.
Xã hội đã đành, đến cơ quan quản lý giáo dục cũng chỉ “đại học, đại học…” thì làm sao hệ thống trường dạy nghề phát triển cho được! Đó là chưa nói, hệ thống đó rõ ràng vẫn còn, nhưng đưa con em vào đó học, ra trường cũng chẳng thể làm được vì chất lượng của chúng đã rơi xuống đến cái đáy nào rồi!
Và tình trạng chảy máu ngoại tệ cho giáo dục lại diễn ra từ góc độ này: như gia đình tôi nếu hướng cho con học nghề, cũng lại sẽ phải đi học ở nước ngoài; học đại học yêu cầu cao quá về những IELTS với TOEFL thì học nghề chắc cũng vừa vừa thôi, nếu con học tinh thông thì vẫn có thể có những “cơ hội toàn cầu” cho con được.
Đã đến lúc cần có một sự “tỉnh ra” từ tầm quản lý nhà nước đến từng học sinh và từng vị cha mẹ, nếu không thì tình trạng khó khăn trong kiếm việc cho các tân cử nhân, kỹ sư còn kéo dài lâu nữa, chưa biết bao giờ sẽ chấm dứt.
Phúc Lai (VietnamNet)