Trong lịch sử nhân loại, dịch bệnh không chỉ ảnh hưởng đến vận mệnh cá nhân mà dịch bệnh quy mô lớn thường là khúc nhạc dạo đầu thay đổi hướng đi của lịch sử, thay đổi triều đại. Lịch sử phương Đông cho đến phương Tây dường như đều xuất hiện hiện tượng này…
Từ xưa đến nay, nhân loại hễ nói đến những dịch bệnh trên phạm vi thế giới hoặc dịch bệnh hủy diệt văn minh nhân loại là biến sắc như nói đến cọp dữ, bởi vì những bệnh dịch đó rất thê thảm: xảy ra nhanh, tử vong nhiều, lây nhiễm mạnh, không thể khống chế được… (Ảnh: Shutterstock).
Đại dịch Đông Hán: Vương triều mạt thế
Những năm cuối đời Đông Hán, ngoài thành Lạc Dương vắng bóng chân người, cỏ mọc um tùm, đã từ lâu thưa vắng cảnh ngựa xe như nước và quang cảnh phồn hoa như gấm ngày nào.
Ở thời đó, Tào Tháo đã miêu tả trong bài thơ “Hao lý hành” rằng:
“Áo giáp sinh chấy rận
Muôn dân chịu tử vong
Ðồng nội đầy xương trắng
Nghìn dặm tiếng gà không
Trăm người còn sống một
Nghĩ đến đớn đau lòng”…
Buồn thay, cảnh tượng thê lương dường ấy. Ngoài nguyên nhân chiến tranh loạn lạc thì dịch bệnh cũng là thủ phạm giết người hàng loạt. Những năm đó hoạn quan làm loạn triều chính, Đổng Trác đoạt quyền hành khiến chính trị hủ bại, thuế khóa nặng nề, bách tính không biết dựa vào đâu mà sống, Trời giáng các loại thiên tai dịch bệnh.
Theo sử sách ghi chép, chỉ mấy năm cuối đời Đông Hán đã có trên 10 lần xảy ra dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc. Đương thời mọi người đều gọi chung là “Thương hàn”. Người mắc bệnh sốt cao khò khè khó thở, rồi chết. Bệnh phát nhanh, tỷ lệ tử vong cao, trên thân xuất hiện những vết tụ máu.
Năm Diên Hi thứ 9 đời Hoàn Đế (năm 166), sử sách viết: “Hôm nay trên trời có xuất hiện dấu hiệu lạ, mặt đất phun ra yêu khí, nhân gian có dịch bệnh”.
Năm Kiến Ninh thứ 2 (năm 169), sử sách viết: “Dịch bệnh hoành hành, người chết cực nhiều”.
Những năm cuối đời Đông Hán, ngoài thành Lạc Dương vắng bóng chân người, cỏ mọc um tùm, đã từ lâu thưa vắng cảnh ngựa xe như nước và quang cảnh phồn hoa như gấm ngày nào. (Ảnh: Shutterstock).
Trong sách “Thương hàn luận”, Trương Trọng Cảnh ghi chép rằng: “Năm Kiến An thứ nhất đến năm thứ 9 đời Hán Hiến Đế, gia tộc ông vốn có trên 200 người, đã chết 2 phần 3, trong đó 7 phần 10 chết vì thương hàn”.
Kinh đô Lạc Dương nhà Hán trên một nửa dân số chết vì dịch bệnh. Tào Thực miêu tả: “Nhà nhà có nỗi đau vì có người chết, có tiếng khóc lóc đau buồn”.
Dịch bệnh hoành hành, tầng lớp văn nhân, quý tộc cũng khó thoát khỏi kiếp nạn. Trong “Kiến An thất tử” (7 nhân vật nổi tiếng thời Kiến An) thì 4 người là Từ Cán, Trần Lâm, Ứng Dương, Lưu Trinh cũng bị chết trong dịch bệnh năm Kiến An thứ 22. Theo tài liệu của quan phủ ghi chép, từ năm Vĩnh Thọ thứ 3 đời Hán Hoàn Đế (năm 157) đến năm Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (năm 280), dân số toàn quốc là 56,5 triệu người đã giảm xuống còn trên 16 triệu người.
Những năm cuối đời Đông Hán, chính trị thối nát, xã hội loạn lạc và dịch bệnh hoành hành khiến cho hào kiệt trong dân gian phất cờ nổi dậy, quần hùng tranh quyền đoạt lợi, mở màn thay triều đổi đại.
Bệnh dịch hạch cuối đời Minh và cuối đời Thanh: Khúc nhạc dạo đầu thay đổi triều đại
Bệnh dịch hạch còn được gọi là “dịch bệnh số một”, là thiên địch hàng đầu của nhân loại. Con chuột bé tí xíu lại có thể kết thúc một vương triều suy bại, là sự thực lịch sử mà những người thống trị rất khó tưởng tượng nổi nhưng buộc phải chấp nhận.
Bệnh dịch hạch còn được gọi là dịch bệnh số một, là thiên địch hàng đầu của nhân loại. Con chuột bé tí xíu lại có thể kết thúc một vương triều suy bại, là sự thực lịch sử… (Ảnh: Shutterstock).
Con người có sinh lão bệnh tử. Một vương triều cũng có quá trình sinh ra, phát triển, phồn vinh và suy bại. Triều Đại Minh trong những năm Sùng Trinh đã là một ông lão bước đi run rẩy như ngọn đèn trước gió rồi. Quân vương lực bất tòng tâm, triều thần ai nấy có tư tâm, quan phủ ngang ngược vơ vét, bách tính như sống trong nước sôi lửa bỏng… tất cả đều đã xa rời Thiên Đạo.
Năm Vạn Lịch thứ 8, bệnh dịch nổ ra ở Đại Đồng, Sơn Tây, 10 nhà thì 9 nhà mắc bệnh. Người bệnh cổ sưng to, dân gian gọi là bệnh đầu to, chỉ một hai ngày là tử vong. Bệnh truyền nhiễm rất mạnh, người bệnh, người chết không ai hỏi han, vì ai nấy đều sợ lây bệnh.
Năm Sùng Trinh thứ 6 (năm 1633), bệnh dịch hạch phát tác từ Sơn Tây, đến năm 1641 thì lan đến Bắc Kinh. Mùa hè năm đó, người ta nhìn thấy chuột kết thành từng bầy từng đàn nối đuôi nhau bơi vượt sông ngòi như đoàn quân cảm tử rồi tiến vào địa giới tỉnh Hà Nam và Hà Bắc. Cả vùng Hoa Bắc bị chuột chiếm lĩnh. Năm đó lại xảy ra đại hạn, nạn châu chấu, mất mùa và dịch bệnh khiến 60% người dân thiệt mạng. Sử sách ghi chép: “Ngoài đường người chết đói ngổn ngang, người chết chỉ được chôn bằng manh chiếu”. 40% số người sống sót còn lại không làm ăn mày thì làm kẻ cướp.
Trong kinh thành, nỗi khiếp sợ của mọi người không dùng lời nào diễn tả nổi. Vào mùa hè, mùa thu, nếu ai trên thân thể xuất hiện một cục thịt nổi lên thì chưa đến một canh giờ đã tuyệt mạng. Bệnh dịch hạch này gọi là “dịch mụn nhọt”. Số người chết trong toàn kinh thành lên đến 40% – 50%. Rất mau chóng, bệnh dịch hạch đã lan khắp đến khu vực ngoại ô như Thông Huyện, Bình Xương…
Mùa hè năm đó, người ta nhìn thấy chuột kết thành từng bầy từng đàn nối đuôi nhau bơi vượt sông ngòi như đoàn quân cảm tử rồi tiến vào địa giới tỉnh Hà Nam và Hà Bắc. (Ảnh: Pexels).
Năm Sùng Trinh thứ 16, theo sử sách ghi chép: “Toàn quốc xảy ra nạn đói, dịch bệnh hoành hành”; đã xuất hiện “dịch bệnh mụn nhọt, bệnh lông cừu”, người bệnh thổ ra nước và máu như nước dưa hấu, sau đó lập tức tử vong. Những vùng như Giang Tô, Chiết Giang… hàng triệu người đã tử vong.
Năm Sùng Trinh thứ 17, khi Lý Tự Thành dẫn 55 vạn quân đánh vào thành Bắc Kinh thì bệnh dịch hạch đã hoành hành hơn một năm rồi, trên phòng tuyến kinh thành nhà Minh, một người lính suy nhược phải chốt giữ 3 lỗ châu mai, gần như là đang diễn vở “Không thành kế”.
Cũng trong năm đó, quân Thanh tiến vào Trung Nguyên, Thuận Trị đăng cơ xưng đế. Kỳ lạ là bệnh dịch hạch như là có hẹn với quân đội triều Thanh vậy, đã rút đi hết, bỗng chốc tuyệt vô tông ảnh. Binh lính nhà Thanh cũng không ai bị nhiễm bệnh.
Bệnh dịch hạch trên phạm vi thế giới đã xảy ra 3 lần, lần thứ 3 bắt đầu từ Vân Nam Trung Quốc. Năm 1894 bệnh dịch hạch lan đến Quảng Châu rồi đến Hồng Kông. Dịch bệnh dài mấy chục năm đã tràn ra khắp châu Á, châu Âu, châu Mỹ… khiến gần 10 triệu người ở trên 60 quốc gia bị tử vong.
Năm 1894, nhà vi trùng học Nhật Bản là Kitasato Shibasaburo cho rằng, nguyên nhân gây bệnh dịch hạch là vi khuẩn hình que bệnh dịch hạch, chỉ có thể là từ chuột lây sang người, còn giữa người với người thì không bị lây nhiễm.
Năm 1911 giáo sư hàng đầu của Y học đường Bắc Dương là Mesny người Pháp cũng có quan điểm tương đồng. Ông chủ trương diệt chuột là có thể diệt dịch. Nhưng thật bất hạnh là giáo sư Mesny sau đó không hiểu sao đã chết vì bệnh dịch hạch mà hoàn toàn không tiếp xúc với bất kỳ loài động vật nào thuộc họ chuột.
Quân Thanh tiến vào Trung Nguyên. Kỳ lạ là bệnh dịch hạch như có hẹn với quân Thanh vậy, đã rút đi hết, bỗng chốc tuyệt vô tông ảnh. Binh lính nhà Thanh cũng không ai bị nhiễm bệnh. (Ảnh: Shutterstock).
Sau dịch bệnh dịch hạch khiến 6 vạn người vùng Đông Bắc Trung Quốc bị chết này, một học giả người Hoa sinh ra ở Malaysia là Ngũ Liên Đức được Chính phủ Dân quốc ủng hộ đã khống chế được dịch bệnh. Ông cho rằng vi khuẩn hình que bệnh dịch hạch cũng có thể lây từ người sang người. Ông đã dùng biện pháp cách ly và hỏa táng thi thể, đã khống chế và dập tắt được dịch bệnh. Vì vậy ông được coi là người mở đầu ngành Phòng dịch học của Trung Quốc cận đại.
Dịch bệnh thời cổ Hy Lạp: Bài học nhân loại cần học nhất
Cùng với sự phát triển của y học hiện đại, khả năng nhân loại chiến thắng dịch bệnh đã không ngừng nâng cao, nhưng bệnh tật, nhất là dịch bệnh quy mô lớn nguy hại đến sức khỏe và tính mệnh nhân loại không hề suy giảm. Vi-rút Ebola, sốt rét, bệnh SARS, nỗi ám ảnh về “cái chết đen” tuy ít khi xảy ra nhưng vẫn đủ giáng đòn chí mạng cho nhân loại.
Từ xưa đến nay, nhân loại hễ nói đến những dịch bệnh trên phạm vi thế giới hoặc dịch bệnh hủy diệt văn minh nhân loại là biến sắc như nói đến cọp dữ, bởi vì những bệnh dịch đó rất thê thảm: xảy ra nhanh, tử vong nhiều, lây nhiễm mạnh, không thể khống chế được… giống như bóng ma vô hình, đó chính là nguyên nhân căn bản khiến nhân loại khiếp sợ dịch bệnh.
Hơn 2000 năm trước, thành Athen huy hoàng rực rỡ bên bờ biển Aegea đột nhiên xảy ra đại dịch. Người mắc bệnh đầu tiên sốt, sau đó đi ngoài, toàn thân nổi mụn đỏ, chân tay bắt đầu thối rữa. Mọi người nhìn thấy những con giòi chui ra chui vào ở những vết thương thối rữa trên thân thể bệnh nhân. Sau 7, 8 ngày thì chết.
Người mắc bệnh hoàn toàn không có khả năng sống sót. Nhà sử học đương thời Thucydides đã ghi chép chi tiết về dịch bệnh rằng: “Mọi người chỉ biết số người chết tăng vọt, nhưng không tìm ra nguyên nhân, cũng không tìm ra biện pháp ngăn chặn. Thi thể nhiều đến mức không có người chôn, ngay cả những con chim con thú, vì ăn thịt tử thi mà cũng bị tử vong, chó, gia súc trong nhà cũng không sống sót”.
Nhưng điều khiến con người không hiểu nổi là đại dịch hoành hành mấy năm trời, thì từ sau cuối năm 426 TCN bỗng nhiên lặng lẽ mất tích như nhận được chỉ lệnh không lời vậy.
Đại dịch ở Athen đã khiến nền văn minh Hy Lạp rực rỡ huy hoàng nhanh chóng đi vào suy bại. Nguyên nhân gây bệnh cho đến tận hôm nay vẫn là điều khiến các học giả bàn cãi phân vân.
Nhưng người đời sau lại có thể nhận thức được rằng, người Athen khi gần đến thời điểm hủy diệt thì đạo đức cực kỳ suy bại. Xa xỉ phù hoa, loạn luân, đồng tính luyến ái, tàn bạo và giết chóc… cuồng loạn suốt đêm ngày dường như đã trở thành lối sống chủ yếu của người Athen thời đó vậy.
Đạo đức suy bại có lẽ là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nền văn minh bị hủy diệt. Việc này rất đáng để con người hôm nay suy nghĩ, cảnh giác và tự răn mình.
Trung Dung (biên dịch)
Tác giả: Cổ Ngọc Văn – epochtimes.com