Điều 11 luật cư trú CHLB Đức (§11 Aufenthalt G) quy định:
Người bị trục xuất sẽ bị cấm nhập cảnh vào Đức và các nước trong khối Châu Âu vô thời hạn.
Nếu muốn quay lại Đức, người làm đơn trước hết phải xin xoá lệnh trục xuất đó (cấm vào Đức) và phải chi trả toàn bộ chi phí cho lần bị trục xuất.
Khi hết thời hạn bị cấm vào Đức, người nước ngoài mới có thể đệ đơn xin cấp thị thực hoặc các chức danh cứ trú khác tại Đức.
Để tiến hành thủ tục xin thị thực trở lại Đức, người làm đơn phải liên lạc với sở ngoại kiều, nơi quản lí họ tại thời điểm bị trục xuất về Việt Nam để được hướng dẫn làm thủ tục ra quyết định trả tiền/Leistungsbescheid và quyết định cấm vào Đức đến thời điểm nào/Befristung Bescheid.
©Mai Lan - TINTUCVIETDUC.DE
Xem thêm:
Điều 11 luật cư trú CHLB Đức (§11 Aufenthalt G)
Gesetz über den Aufenthalt, die Erwerbstätigkeit und die Integration von Ausländern im Bundesgebiet (Aufenthaltsgesetz - AufenthG) § 11 Einreise- und Aufenthaltsverbot
- Ein Ausländer, der ausgewiesen, zurückgeschoben oder abgeschoben worden ist, darf weder erneut in das Bundesgebiet einreisen, noch sich darin aufhalten, noch darf ihm, selbst im Falle eines Anspruchs nach diesem Gesetz, ein Aufenthaltstitel erteilt werden (Einreise- und Aufenthaltsverbot).
- Das Einreise- und Aufenthaltsverbot ist von Amts wegen zu befristen.
Die Frist beginnt mit der Ausreise.
Im Falle der Ausweisung ist die Frist gemeinsam mit der Ausweisungsverfügung festzusetzen. Ansonsten soll die Frist mit der Abschiebungsandrohung, spätestens aber bei der Ab- oder Zurückschiebung festgesetzt werden.
Die Befristung kann zur Abwehr einer Gefahr für die öffentliche Sicherheit und Ordnung mit einer Bedingung versehen werden, insbesondere einer nachweislichen Straf- oder Drogenfreiheit.
Tritt die Bedingung bis zum Ablauf der Frist nicht ein, gilt eine von Amts wegen zusammen mit der Befristung nach Satz 5 angeordnete längere Befristung. - Über die Länge der Frist wird nach Ermessen entschieden.
Sie darf fünf Jahre nur überschreiten, wenn der Ausländer auf Grund einer strafrechtlichen Verurteilung ausgewiesen worden ist oder wenn von ihm eine schwerwiegende Gefahr für die öffentliche Sicherheit und Ordnung ausgeht.
Diese Frist soll zehn Jahre nicht überschreiten.