Người châu Âu nổi tiếng luôn tự thưởng cho mình những kỳ nghỉ dài trong suốt mùa hè.
Ở Na Uy, thuật ngữ “fellesferie” dùng để chỉ những kỳ nghỉ tập thể kéo dài tới 2 hoặc 3 tuần của người lao động diễn ra vào tháng 7 hàng năm. Thời gian này các doanh nghiệp sẽ đóng cửa hàng hoặc chỉ hoạt động theo giờ mùa hè.
Tại Hà Lan, người lao động trong ngành xây dựng thường có kỳ nghỉ gọi là “bouwvak” kéo dài trong nhiều tuần.
Còn ở Pháp cho đến thời điểm 2 năm trước, một đạo luật được ban hành yêu cầu những người làm bánh tại đây phải xen kẽ thời gian nghỉ hè của họ để làm sao vẫn đảm bảo có đủ các hiệu bánh mở cửa phục vụ khách hàng trong suốt kỳ nghỉ.
Đây là là những mô hình đáng khao khát đối với đa phần người dân Mỹ – quốc gia duy nhất trong nhóm OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) không ban hành quy định về những kỳ nghỉ có trả lương dành cho người lao động. Tồi tệ hơn nghiên cứu cho thấy, rất nhiều người Mỹ dù được hưởng ngày nghỉ có trả lương nhưng vẫn lo sợ khi nhận đặc quyền này bởi áp lực nơi làm việc.
Tuy nhiên, trên thực tế tư tưởng nghỉ dưỡng của người châu Âu lại giúp thúc đẩy năng suất lao động hiệu quả.
Ban chỉ đạo thời gian làm việc của Liên minh châu Âu đảm bảo rằng người lao động ở khu vực này được hưởng ít nhất 20 ngày nghỉ có trả lương mỗi năm, so với đó, ở Mỹ thậm chí không có định chế về mức nghỉ hàng năm tối thiểu.
Một vài quốc gia châu Âu có quy định về thời gian nghỉ phép có trả lương như: Anh, Pháp, Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Luxembourg và Thụy Điển. Tất cả các nước này thường yêu cầu có từ 25 hoặc hơn số ngày nghỉ có trả lương hàng năm.
Dữ liệu cho thấy thời gian nghỉ càng nhiều không hề khiến cho ra năng suất lao động thấp hơn. 9 trong 10 nước có năng suất lao động tốt nhất trong nhóm OECD năm 2015 nằm ở châu Âu (chỉ số tính theo GDP mỗi giờ làm việc). Nước Mỹ chỉ xếp thứ 6.
Katie Denis là Phó chủ tịch và nghiên cứu trưởng tại Time Off – dự án được gây quỹ bởi Hiệp hội du lịch Mỹ nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian nghỉ ngơi tại nơi làm việc trong nhiều năm. Bà cho rằng: “Ý tưởng cho rằng chúng ta đang hy sinh vô ích thời gian nghỉ ngơi là sai lầm”.
Trong báo cáo năm 2016 của dự án có chỉ rõ, người lao động có 11 hoặc hơn số ngày nghỉ thường nhận được sự tăng lương hoặc thưởng trong 3 năm trước đó nhiều hơn so với những người chỉ có 10 hoặc ít hơn số ngày nghỉ.
Thời gian nghỉ ngơi ngoài giờ làm việc có thể giúp bạn sáng tạo hơn. Những ý tưởng về kinh doanh như trang mạng xã hội Instagram hoặc vở nhạc kịch Hamilton đều được sáng tạo ra trong những kỳ nghỉ.
“Năng suất lao động, sự sáng tạo, những ý tưởng mới mẻ không tới từ những người làm việc điên cuồng. Thực tế nó sẽ tới từ những người tránh xa công việc hàng ngày của họ”.
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra những lợi ích to lớn về mặt sức khỏe từ việc nghỉ ngơi, như giảm stress, sức khỏe tinh thần tốt hơn và thậm chí ít ít bị đau tim hơn.
“Nghỉ ngơi rất quan trọng bởi nó không chỉ giúp trí não hoạt động tốt hơn mà còn làm giảm ảnh hưởng vật lý lên cơ thể”, theo Kathleen Potempa – Giáo sư tại Đại học Michigan School nói.
Áp lực công việc quá tải là rào cản khiến nhiều người không dám tận hưởng những kỳ nghỉ dài.
Nghiên cứu Time Off thực hiện trên hơn 7.000 người Mỹ nhận thấy 43% người lao động không dám nghỉ ngơi bởi họ sợ khi quay lại 1 đống công việc sẽ chờ đón. Chi phí cũng là một rào cản lớn với 32% nói rằng họ không đủ tiềm lực tài chính để thực hiện những kỳ nghỉ.
Tuy nhiên các chuyên gia nói rằng những kỳ nghỉ ngắn và thường xuyên, tránh xa văn phòng làm việc có thể mang lại ảnh hưởng to lớn tới năng suất lao động. Nhiều nghiên cứu cho rằng nên có 2 kỳ nghỉ mỗi năm để cải thiện những lợi ích về sức khoẻ.
Potempa cũng nói thêm rằng một điều quan trọng nữa là nhân viên phải loại bỏ hoàn toàn công việc khi họ đi nghỉ ngơi. Một nghiên cứu mới đây cho thấy 1/3 người Mỹ vẫn làm việc và kiểm tra email trong khi đi nghỉ.
“Điều quan trọng là biến việc đó trở nên thường xuyên khiến bạn không thể bỏ qua. Rõ ràng, nhiều ảnh hưởng tiêu cực sẽ xuất hiện với những người không đi nghỉ mát trong nhiều năm’.
Nguổn: Trí Thức Trẻ