Phần 3

Kumar là dân Srri Lanka tới trại tị nạn Golderg đã lâu.

Trong trại. Kumar là người duy nhất có thể nói được mấy thứ tiếng. Tất nhiên tiếng mẹ đẻ chẳng mấy khi được đụng tới, trừ khi, thi thoảng lắm, có vài người bạn đồng hương của anh từ Hamburg tới thăm.

Tiểu Thuyết: QUYÊN – Nguyễn Văn Thọ - Chương 3 - 0

Kumar nói tiếng Đức khá thạo. Anh vừa tới trại, đã xin vào học ngay khoá tiếng Đức hai năm dành cho người nước ngoài. Kumar đã nắm vững tiếng Anh từ trong nước, nên học tiếng Đức nhanh.

Kumar nói tiếng Anh hay tới mức khiến nhiều người Đức cũng phải khâm phục. Tay bác sĩ Mueler, phụ trách thăm khám vệ sinh khu trại, kẻ hay là cà tán phét với trại viên, có lần bảo, Kumar, cậu nói tiếng Anh hay hơn cả bà giáo Reny dạy tớ hồi trung học! Điều ấy dễ hiểu, nếu ai quan tâm tới lịch sử Sri Lanka trước kia, hẳn biết mảnh đất ấy lệ thuộc vào Anh bao nhiêu năm trời!

Đến trại Goldberg, anh chung sống với những người Việt. Thấy Kumar lành, cởi mở, lại tha thiết bày tỏ muốn học tiếng Việt Nam, một người nguyên xưa là giáo viên văn đã dạy anh nói tiếng Việt. Kumar lại học tiếng Việt rất nhanh và sau dăm năm ở trại tị nạn, anh có thể hiểu những câu ngạn ngữ, nói được những từ đại loại như hết sảy hoặc những từ lắt léo, nói lái từ tiếng Anh, ví như ô kê là con gà đen! Ngoài ra, khi vui, anh còn hát vài bài tiếng Pháp. “Dạo ở Algérie, tớ trọ trongg một tầng hầm. Có một chiếc máy hát và một đống đĩa hát cũ. Tớ bỏ Algérie, tới Pháp, sang Bỉ, Tây Ban Nha, rồi quay lại Pháp và cuối cùng về đây… Tớ từng làm thợ hồ, thợ xẻ gỗ, thợ lò mổ và từng chạy xe đạp phát quảng cáo trên đường phố. Nửa năm ở Nam Pháp, tớ còn làm mục đồng, chăn súc vật và sau đó đi trồng nho nhỏ ở một trang trại”. Kumar kể về anh như vậy.

Một lần, ở trại có đám giỗ mẹ của một người Việt. Người kia mời Kumar. Không biết làm thế nào mà Kumar cũng biết phong tục Việt? Anh tìm tới cửa hàng châu á , mua một thẻ hương và hoa quả, lại phong bì 50 D.mark. Những người tha hương sống ở nơi thừa mứa rượu, song chả mấy khi có dịp, có cớ uống rượu vui với nhau cho thậm say. Uống! Uống để quên đi những lo lắng, bồn chồn, cô quạnh nơi xứ người! Nay có giỗ chạp, kẻ chỉ uống được ít, cũng tự nhiên liều mình uống thêm vài li nhỏ. Những li rượu vui và buồn! Kumar thường ngày uống cũng được! Nhưng rượu chứ đâu phải nước lã, tới chén tống thứ bảy anh cũng lơ mơ. Anh đen cháy, đi lại ngất ngưởng, nom buồn cười lắm! Tới hồi khuya, Kumar ngồi bệt xuống góc tường và đột nhiên cất tiếng hát.

Những kẻ li quê, nghe thấy một bài ca lạ, giai điệu thật buồn. Không ai hiểu bài hát nói gì, nhưng rõ ràng, ai cũng nhận ra, mắt Kumar khi ấy cũng buồn thăm thẳm như điệu hát. Cho tới vài ngày sau, có kẻ gặng hỏi, anh mới kể: “Đây là bài hát về những cánh rừng và thảo nguyên quê tôi. Rồi anh trầm xuống kể: “Gia đình tôi thuộc dòng họ Sinnatuerrai. Đó là một dòng họ lớn ở vùng quê tôi. Nhà tôi có hai ba cánh rừng, mấy đồng cỏ ruộng. Dê thì nhiều lắm!” Nội chiến xảy ra. Cha Kumar bị đạn lạc, chết tươi ngay ở sân nhà. Kumar theo mẹ và hai chị chạy loạn, hết khu trại này tới cánh rừng khác. Họ để mặc gia súc không ai chăn thả. Từng đàn gia súc lần lượt lần lượt trở thành thực phẩm miễn phí cho các toán phiến quân, cả những đám người chạy loạn.

Mẹ không muốn Kumar, đứa con trai duy nhất của dòng tộc Sinnatuerrai chết trong cuộc chiến nồi da xáo thịt, nhân có chuyến mộ thợ hồ sang Algérie, đã chạy vạy đưa Kumar lên tàu biển. Quàng vào cổ Kumar sợi dây đeo bức tượng Phật bằng đồng đen tuyền, linh cảm sẽ xa con biền biệt, bà nói: “Cầu Đức Phật, phù hộ cho con may mắn!” Kumar đôi khi vẫn nhớ lại, khi con tàu rúc còi rời bến, anh cảm thấy rõ, buồn ơi là buồn. Bóng mẹ và vài người thân của gia đình anh nhoà dần, nhoà dần rồi mất hút trong giải xanh chạy miên man dọc bờ. Anh không khóc. Người như Kumar chẳng khóc. Nhưng quả thật khi ấy lòng anh như có ai lấy dao đâm chọc liên tiếp.

Bao năm xa quê, qua nhiều nước, biết được đủ mọi hình thái sống, hành trang được thay thế vài lần, Kumar cũng nhớ nhớ, quên quên nhiều chuyện, nhưng tượng Phật nhỏ luôn trên cổ anh. Chỉ khi làm ở tiệm Pizza, nơi không khí tràn ngập toàn mùi đồ ăn, thức uống, sợ tượng Phật ô uế, anh mới tháo ra đặt lên nóc tủ.

Kumar rời nước Pháp chạy sang Đức khi bức tường Berlin vừa sập. Anh nói, hết hạn hợp đồng thợ nề, lang thang mãi chẳng nơi nào dung thân, nước tớ lại tiếp tục rộ lên nội chiến. Té thôi! Kumar nháy mắt, rồi cười. Da mặt anh đen sẫm như than, nhoà lẫn vào bóng tối, nhưng đôi mắt như luôn ẩn tàng, thoáng hiện thứ ánh sáng mơ hồ, xa xăm và đôi môi hệt có vệt son ánh lên! Nét châu á trên khuôn mặt anh rất dễ nhận ra, nhưng nước da của anh thì thực đen tuyền như người châu Phi. Nếu nghe anh nói tiếng Anh, Pháp, mà không để người nghe nhìn mặt, thì ngỡ Kumar là người Âu. Hàng ngày, dẫu bận tới mấy, anh vẫn dành thời gian sớm hay tối, ngồi yên trước pho tượng nhỏ. Có hỏi, mày cầu xin gì đó? Anh chỉ cười, nhô hàm răng đều trắng xoá. Kumar không xin gì cả! Anh chỉ muốn bình yên, bởi anh tin lời mẹ dặn: “Trước Đức Phật, người ta chỉ có thể tìm sự bình yên!” Khi có người bạn đồng hương nào đến, anh nấu cơm kiểu như luộc gạo. Gạo sậm sựt thì cũng cạn nước. Bớt lửa, để một tẹo, nghe chừng chín tới, anh đổ cơm ngay ra đĩa cho nguội. Xem họ ăn bốc, hoặc ở bên ngoài phòng, lắng nghe họ nói chuyện, ta thấy một âm thanh bột rộn chồng chéo, lúi ríu như có một đàn chim lao xao trong khu rừng đại ngàn và, hiểu: anh đúng là người Sri Lanka.

Rõ ràng, từng ấy cũng chứng tỏ Kumar là tay “giang hồ thứ thiệt”.

Sau mấy lần thẩm vấn, xem xét, Sở ngoại kiều thành phố đã cấp giấy Cư trú vô thời hạn, mà anh chưa thuê nhà riêng. Không phải Kumar không muốn có một nơi ở tốt hơn, tự do hơn. Anh quá ít thời gian để tìm một chỗ ở ưng ý. Vả lại, việc ở trại cũng giúp anh tiết kiệm hai trăm D.mark một tháng. Ai cũng biết, Kumar rất chăm gửi tiền về cho mẹ. Anh từng nói, ai chứ mẹ tớ tiết kiệm lắm, tớ chẳng thể quên những ngày chị và mẹ tớ toàn húp cháo, chạy đạn bom trong rừng… Thương lắm!

Kumar đi đưa Pizza từ 9 giờ sáng tới tối mịt. Thường là gần nửa đêm, anh mới kết thúc công việc, trở về trại bằng chiếc xe mô – tô thùng vuông màu trắng, có dòng quảng cáo màu da cam: “Pizza tươi!”

Như mọi làn, đêm nay về tới trại, anh tắt máy từ xa, cho xe trôi không một tiếng động. Tới sát bờ rào, sau rặng hồng đang còn những đoá hoa cuối vụ, anh khoá xe lại. Ngẩng mặt lên, anh chợt nhìn thấy một người đang loạng choạng như muốn ngã, tay quơ ra như muốn bám lấy đám hồng leo trên rào. Kumar bước nhanh tới, nhận ra trong bóng đêm nhập nhoạng, một người đàn bà có cái bụng kềnh càng. “Chị làm sao thế?” Kumar hỏi bằng tiếng Đức. Người đàn bà giật mình, quay ra nhìn về phía Kumar.

Bây giờ trăng vừa vượt qua đám mây, vằng vặc sáng. Kumar nhìn rõ hơn khuôn mặt người đàn bà trẻ đang nhìn sang phía anh. Anh cảm giác, đó là một người Việt.

Đúng! Người ấy là Quyên.

Cái thai trước giây phút gặp Kumar vừa đạp thêm một cú khá mạnh, làm cô giật thột, đau quặn tới mức chỉ muốn gục xuống.

Sao một người Việt Nam lạ mặt lại tới trại khuya vậy? Kumar nghĩ và lập tức bật ra một câu tiếng Việt:

– Em ơi? Có cần anh giúp đỡ không?

Trong ánh trăng bàng bạc, Quyên thấy một người da đen hơn cả bóng đêm. Mắt Kumar đựng tràn ánh trăng, nổi lên như hai điểm sáng giữa màn đêm nhập nhoà. Kumar lại bất chợt cười. Gã phô hàm răng trắng xoá làm Quyên chờn chợt. Cô lắp bắp: “Tôi đi tìm…” Nói có nửa câu vậy, rồi Quyên đưa tay lên ngực, như sợ trái tim mình nhảy vọt ra ngoài. Kumar là người thông minh, chợt hiểu, anh nói ngay một hơi: “Xin chị đừng sợ. Chị tìm gì? Tôi tên là Kumar. Kumar sống ở trại Goldberg này”.

Quyên nhìn Kumar. Gã da đen không cười nữa, đôi môi tươi nhấp nháy. Bình tĩnh lại chút ít. Quyên cố can đảm nói lắp bắp: “Tôi…ôi… tìm… anh Dũng. Tôi là vợ…”

Hoá ra cô ấy đi tìm chồng! Kumar chợt nhớ ra ai đó trong trại đã kể về Dũng. Dũng thì Kumar không lạ. Anh ta ở đối diện với phòng Kumar. Anh cũng từng nghe người ta kể, Dũng lạc mất vợ khi qua biến giới. Thì ra, đây là người đàn bà mà đôi khi trong các câu chuyện của người Việt bên bếp nấu, nhà giặt, được loáng thoáng nhắc tới. Cô ta thực đẹp! Kumar thầm nghĩ. Có những người đàn bà khi có chửa nom dệch dạc, dị dạng, xấu lắm. Lại có những người đàn bà mang thai tới tháng trở dạ mà vẫn đẹp, thậm chí nom càng đàn bà, mỡ màng, tươi tắn, hấp dẫn hơn. Khi ấy, anh bỗng nhớ tới khuôn mặt sạm nắng, quắt queo của chị cả anh.

Chiến tranh ở nơi đâu chẳng như vậy! Có lần anh chia sẻ với các bạn trại viên Việt Nam.

Những cuộc bắn pháo dữ dội giữa các toán quân đã cắt đứt các đường giao thông. Công việc buôn bán sản phẩm ở trang trại của cha mẹ anh bị ngừng trệ. Đồng cỏ chẳng còn ai thả trâu và lùa cừu, dê về chuồng khi trời sập tối. Kumar từng nhìn thấy trên một cánh rừng, hơn hai chục người cùng nòi giống băm vằm, nổ súng như điên dại vào nhau, để tất cả cùng chết thê thảm. Ông anh rể trên thị trấn bặt tin sau trận pháo dữ dội của phiến quân, rồi mất tích. Chị anh, nàng Jokabani chưa từng vất vả, nay vác cái bụng chửa bốn, năm tháng đi tìm chồng. Theo đường la và ngựa của những đoàn người buôn lậu len lỏi trong rừng, Jokabani mò mẫm dấu vết chồng mà không thấy, rồi ngã bệnh vì sương gió, chị đẻ non, băng huyết, mất lúc hai tám tuổi.

Người đàn bà này trẻ và đẹp hơn so với người chị của anh. Cô ta lại gặp may mắn hơn, nên đã tìm được trúng nơi ở của chồng.

Kumar đi trước, đưa Quyên tới cuối dãy hành lang. Anh dừng lại trước gian phòng có cánh cửa sơn màu trắng toát. Cửa có cái lỗ kính quan sát như mắt chột. Anh gõ cửa, gọi lớn: “Anh Dũng ơi, có khách này!”

Quyên không thể hình dung cuộc gặp gỡ với chồng, người cô thương yêu tha thiết, người cô hy vọng và tin tưởng vô vàn, lại tẻ nhạt, vô duyên tới vậy.

Khắc giây cửa bật mở! Dũng giật thột khi trông thấy Quyên. Thoạt tiên, ngay khi nhìn nửa giây qua lỗ quan sát, anh nhận ra Quyên, lập tức mắt anh sáng bừng vì bất ngờ. Song, cũng lập tức, khi cửa bật mở, đập ngay vào mắt anh là cái bụng phưỡn ra chềnh ềnh, khác lạ của vợ.

Khi đó, trong đầu anh, thay vì sự kinh ngạc khi vợ bất ngờ xuất hiện là một câu hỏi loé lên trước cái bụng to kềnh càng, sắp tới ngày sinh tháng đẻ của Quyên. Quyên cũng nhận ra cái nhìn đầy ngỡ ngàng của chồng, dù lúc đó, đôi mắt cô đã nhoà lệ.

Cái bụng, vâng chính cái bụng phưỡn ra chợt như gáo nước lạnh đổ oà, dập tắt niềm vui, dập tắt ngọn lửa nhỏ vừa loé lên trong đôi mắt Dũng.

Suốt đêm, cả hai vợ chồng không ngủ. Mấy lần Quyên đưa tay quàng sang chồng, đều bị anh hất ra một cách phũ phàng. “Cô chửa với thằng nào?” Giọng Dũng gằn trong đêm.

Quyên có thể nói dối. Cô có thể bịa ra rằng, chính cái thai trong bụng là giọt máu của chồng cô, của Dũng. Bởi người ta, trong cuộc di dời mạo hiểm, đầy bất trắc ấy, ai trong họ còn nhớ được vợ chồng đã bao lần yêu nhau?

Nhưng Quyên không thể nói dối! Cô là dạng người không biết nói dối! Sao có thể nói dối với chồng, người cô muốn yêu trọn đời.

Quyên đã kể hết với chồng.

Cô nói về cái đêm vượt biên, khi anh đã ở bên kia biên giới, cô ở lại bên này hoảng sợ ra sao. Cô kể về dải rừng mênh mông trắng lạnh, không thể thấy lối ra; tới căn nhà gỗ, cái chòi bắn, nơi gã đưa đường, tên Hùng, đã giam cầm và chiếm đoạt, ăn hiếp cô suốt gần tám tháng trời. Cô kể cả cái vách đá đầy rêu cao ngất và thảm rừng đầy lá mục lẫn tiếng tru của bầy sói đói. Tất nhiên Quyên nói rằng, cô không yêu Hùng. Cô bị cưỡng hiếp. Cô thầm thì thổ lộ, kể về những ngày, đêm biết bao thương nhớ chồng, và cả lần cô muốn giết Hùng và tìm cách chạy trốn. Cô cũng đã nói, giọng gần như khóc với Dũng: “Trên đời này em rất và rất yêu anh, chỉ yêu anh”. Quyên nói, gã – kẻ đưa đường muốn lấy cô làm vợ và định đưa về thành phố để sinh nở, nhưng cô quyết định đi tìm anh…

Nằm bên cạnh, Dũng đốt thuốc liên miên. Anh không thể tin được mọi tình huống lại có thể diễn ra như lời vợ anh nói. Làm gì có “thằng đưa đường”, “đám thảo khấu” nào lại tử tế tới như vậy. Bắt hiếp, chửa và thả ra, lại còn đưa đi tìm chồng! Vô lí! Vô lí quá! Quyên, vợ anh đẹp như thế. Phải “có cái gì” với nó chứ!? Nhất định là phải có tình ý gì với nhau! Thi thoảng anh lại nhỏm dậy, rồi lại nằm xuống. Những lời kể của Quyên khi như cơn gió thoảng bên tai, khi như tiếng gươm giáo loảng xoảng, làm lòng anh tan nát. Bấy lâu nay, từ ngày vợ chồng lạc nhau, rồi anh nhập trại. Dũng như người mất hồn, quẫn trí. Xưa, anh hy vọng biết bao nhiêu, về một vị trí xứng đáng đợi chờ anh ở thế giới phương Tây đầy hấp dẫn, thì ngay sau vài tuần nhập trại, anh thất vọng bấy nhiêu. Con người ta phải có công việc, một nhà khoa học tương lai như anh càng cần có công việc, thế mà bao ngày rồi, anh trở thành kẻ vô công rồi nghề. Bằng cấp, học vị tiến sĩ của anh, giờ đây chỉ là mớ giấy lộn. Kiến thức và những khát khao, tiền đồ của anh chỉ là sự phù phiếm. Một sự chờ đợi mệt mỏi, vô vọng! Anh hoang mang đến sợ hãi vì tới tận đây, giữa lòng phương Tây, mới biết, mới tai nghe mắt thấy rằng, có những kẻ chờ đợi giấy tờ hớp pháp cả vài chục năm, khi tuổi thọ chẳng còn trẻ, thành thứ người vô tăm tích, bởi không có một quốc tịch gốc rễ giấy trắng mực đen ghi vào hồ sơ xét nhận kẻ tị nạn. Đau thật đau, buồn rõ buồn, khi anh tự nhận ra, sau bao nhiêu năm chí thú, học hành nghiêm chỉnh, giờ đây vô hình trung, anh đồng hạng với những kẻ vô học, với đám người vô công rồi nghề, trắng đêm nằm khàn, hay vùi đầu vào trong những cuộc sát phạt cò con, hoặc những băng hình rẻ tiền, chôn vùi đời sống ngập chìm vào men say bia rượu. Anh cũng đồng hạng, với tư cách của những kẻ chỉ mơ ước đủ miếng cơm manh áo, cùng đường ra đi, bao hy vọng tới đây. Và, đối với họ, những kẻ ấy, cuộc sống chờ đợi phía trước thật oái oăm, vì ngay kể cả lúc họ đã có giấy tờ, lại phải tìm kiếm một may mắn khác, chờ đợi “may mắn có một chỗ làm”. Còn công ăn việc làm hiện tại, khi chưa có giấy tờ hợp pháp, dành cho họ, cho anh, cũng phải chui lủi, dù đó là những công việc mạt hạng nhất; tỉ như đưa phát quảng cáo, rửa bát hoặc dọn dẹp ở một cửa hàng nào đó của các quán Tầu hay tương tự. Thế đó, những công việc của cơ bắp, trống rỗng về trí não. Sự mất tích của vợ là cú đòn thứ nữa, đau đớn hơn, nặng nề hơn, dằn vặt anh bấy nay. Nhưng anh vẫn hy vọng tìm thấy vợ. Anh đã dò hỏi khắp nơi. Anh đã ki cóp từng đồng D.mark và làm bất cứ việc gì để có tiền. Từng ngày một, những quán ăn Tầu hút kiệt sức anh, từ chín giờ tối tới quá nửa đêm, bên chồng thìa, nĩa và bát, đĩa cao ngất, bên chảo, mỡ và đống thức ăn thừa. Bàn tay chưa bao giờ làm việc cực nhọc của anh trong quá Tầu bị nước rửa nhãn hiệu Pril làm mốc thếch, lột đi từng mảng da mỏng. Nhẫn chịu, anh ăn uống kham khổ, chắt bóp từng cent, cũng để một phần cho hi vọng. Hi vọng gặp lại Quyên. Anh cố sống thoi thóp, khi những sở ước về nghề nghiệp, về danh vọng trở thành vô vọng ở trại tị nạn, bởi hi vọng cho ngày gặp lại Quyên! Vậy mà giờ đây, vợ chồng gặp nhau, sự thể lại thế này. Cứ nghĩ vậy mà lòng Dũng đêm nay như có trăm ngàn nhát chém.

Phản bội! Anh bị phản bội!

– Thôi, cô im đi!

Quyên câm lặng

Trong màn đêm, cái bụng vợ vồng cao thì không im lặng, nó như tảng đá đen sẫm, nặng nề, hắc ám hằn lên bức tường trắng. Nó tiếp tục vò xé con tim tới đau đớn khôn cùng của Dũng. Anh chợt cảm giác, những nét vô cùng thương yêu của người vợ ngày xưa chẳng còn nữa, tất cả tán biến đi đâu hết! Chỉ tại cái vồng bụng nặng nề hắc ám kia, nó làm tất cả những gì quen thuộc, yêu dấu, đêm nay thoắt chốc trở lên xa lạ. Ghê tởm!

Quyên quàng tay sang lần nữa.

Không! Tởm lợm quá! Anh phũ phàng hất tay Quyên ra, lặng lẽ xoay người.

Bất lực, Quyên rấm rứt khóc…

Một tuần kế đó, cái tuần thật khốn nạn, chẳng có ai thuê mướn! Anh bỏ đi, lang thang suốt trong thành phố cho hết ngày.

Tối tối, anh trở về ngồi lì bên quán rượu gần trại, âm thầm uống.

Anh thường về tới phòng khi đã quá nửa đêm.

Đêm nay, Quyên không thức chờ chồng về như mọi đêm. Cô đã ngủ. Cái chăn mỏng đắp hờ lên người. Nửa tiếng sau, chăn ấy rơi xuống thảm.

Mười hai giờ đêm, có tiếng lách cách mở khoá cửa. Dũng về. Anh không nhìn vào giường vợ, tới nằm trên cái đêm cá nhân bên góc tường. Men rượu làm anh thiếp đi nhanh chóng.

Bây giờ trăng đã rằm.

Trăng lên. Cái đĩa bạc to tròn, cao, sáng lồng lộng chiếu qua cửa sổ rộng trong vắt, như trải một tấm thảm sáng vàng óng lên chỗ Quyên nằm. Thứ ánh sáng dịu, lành mạnh, ảo huyền của trăng đầu đông làm cho người ta có cảm giác, chiếc áo ngủ mỏng màu thiên thanh phẩy kim tuyến Quyên mặc trên mình bỗng trở lên trong suốt. Trong thứ ánh sáng ma mị của trăng đêm nay, thân hình Quyên bấy giờ, những nếp vải mềm uốn lượn, ôm sát cơ thể chợt biến cô như một pho tượng nằm nghiêng, được dát thêm lên một màu tơ vàng óng, mong manh.

Anh nhỏm dậy, sững sờ nhìn Quyên. Khuôn dáng kì ảo của Quyên bấy giờ làm anh xao xuyến. Sao em tới được đây? Có đúng là em không? Anh thì thầm và tới bên Quyên. Khuôn mặt của Quyên từ xưa, vốn vẫn rất tươi, bình thản. Trong ánh trăng đêm nay, càng gợi vẻ thanh thoát, hấp dẫn lạ thường. Đôi môi he hé, rõ bờ môi nét trái tim, môi dưới rất mọng như mời gọi. Đôi mắt Quyên nhắm lại, càng làm rõ hàng lông mi dài. Thăm thẳm, Hàng mi thẫm cong tuyệt vời ấy nổi lên trên gò má trắng mịm màng. Tim anh đập dần nhanh hơn. Anh cảm rõ từng nhịp thở của Quyên. Nhịp thở làm đôi vú căng tràn sức sống của nàng – mà anh biết rất rõ, chẳng có làn da nào mịn trắng hơn thế nữa – cứ nhịp nhàng trào lên, hạ xuống như sóng dập dềnh, khiến anh nôn nao. Có lẽ Quyên đang mơ. Nét mặt dịu dàng, tươi tắn của vợ càng làm cho trái tim anh đập nhanh hơn.

Anh bàng hoàng ngắm nhìn thân thể, lướt trên khuôn mặt vợ rồi cúi xuống. Lưng anh ấm nóng dần lên. Lòng anh trào dâng khát vọng làm tình không gì cưỡng nổi. Anh hôn nhẹ lên đôi mắt vợ rồi chuyển xuống hôn như cắn vào đôi môi mọng chín quyến rũ. Anh nhận ra ngay mùi miệng thơm như mùi cốm, như mùi sữa quen thuộc của vợ. Mùi da thịt, mùi hơi thở và cả mùi mồ hôi rất riêng của vợ anh lên hương từ vùng tóc sau gáy, từ hõm ngực và từ nách. Mùi hương của những người đàn bà ta yên, vốn là sức quyến rũ mê hồn nhất, khủng khiếp nhất với đàn ông, làm nên sự rung chuyển kì lạ trong anh. Toàn bộ những động chạm, bắt đầu từ con mắt tới hình thể, từ bàn tay tới da thịt, làm tất cả khứa giác trong anh được huy động tối đa, vụt tạo thành cảm giác đê mê, khoái cảm, hạnh phúc dâng tràn ứ, không thể chế ngự. Cơn sóng cảm giác ấy mau chóng lan tràn khắp cơ thể, rung lên, thúc đẩy từng tế bào trong anh nhộn nhạo, nở ra, có nơi rắn cưng như sắt nguội. Không thể khác, Dũng hối hả mơn man rồi miết, chà xát hai bàn tay lên cặp vú vợ. Anh rút mặt xuống, kéo áo Quyên trễ hẳn qua vai. Đôi mắt sáng bừng lên. Cúi xuống nữa, anh ghé miệng, cắn và mút nhè nhẹ lần lượt cả hai đầu vú. Hôi hổi và rạo rực, môi anh bập vào đôi nhũ hoa hối hả, gấp gáp như kẻ khát ra sức uống cạn dòng nước tình ngọt ngào.

Quyên bừng tỉnh. Ban đầu, cô lập tức nhận ra đôi môi, rồi bàn tay ấm nóng và đôi mắt rất gần của chồng… Sức nóng âm ỉ tiềm ẩn của người ta – dục vọng – cũng trong độ thanh xuân, vốn bao giờ vẫn như lửa than vùi trong tro trấu, cất giấu bao lâu trong vô thức, ở Quyên, giờ bùng lên, cháy rực thành ngọn lửa nóng giãy hun đốt từng mạch máu thớ thịt của cô. Quyên mở to mắt. Bắt đầu cô ý thức hình như cô được làm lành, tiếp sau là sự cộng hưởng dữ dội và bản năng. Cả hai điều ấy, khi người ta yêu, thường tan quyện vào nhau, thăng hoa và mách bảo, đáp ngay lại sự yêu thương, một cách cuồng nhiệt nhất. Quyên choàng tay ghì siết cổ Dũng. Cô nồng nhiệt mút chặt vào môi trên của chồng. Cô cuống cuồng như muốn hút toàn bộ nhựa sống của người cô yêu thương vô cùng. Sự run rẩy của cơ thể Dũng lây truyền sang cô, phút chốc khiến toàn thân cô chuyển sang trạng thái cũng run lên và nóng ẩm. Đôi tay trần, trắng mềm của cô cũng quấn lên cổ chồng, dịu dàng toả ấm, căng ra, quàng xiết, núi chặt tấm thân Dũng, như để anh và cô cũng sẽ tan ra, hoà biến vào nhau.

Nhận ra luồng điện rần rật chạy từ thân xác người đàn bà đẹp truyền sang. Dũng giật nảy toàn thân. Anh cuống quýt hôn nữa xuống phía dưới. Anh kéo tuột áo ngủ Quyên xuống qua bờ vai trắng ngần. Trong trăng, đôi vú đầy căng, lồ lộ hai núm vú đã cương lên, hơi thẫm màu, nhưng nhọn hoắt, tâng tâng thách thức.

Như một thói quen được truyền lại từ vô thức của giống đực, bàn tay anh luồn xuống dưới tìm kiếm.

Khi ngọn lửa của tình ánh đang rừng rực cháy, sắp tới độ tưởng không còn gì ngăn chặn và kiềm toả. Dũng bỗng đụng phải cái bờ bụng. Cái bụng ấy, chính nó, xưa là khát khao, ao ước một đứa con của “kẻ đưa đường” tên Hùng, nay lại là sự căm thù của Dũng, giờ đây như con đê chặn dòng thác yêu. Đúng như bất chợt có dòng nước lạnh tàn nhẫn, đột ngột ùa tới, khi vùng xác định của cái bờ bụng được phát hiện. Anh lập tức tỉnh phắt.

Như mộng du, sự khởi phát và chấm dứt mọi hành vi và cảm giác của Dũng diễn ra hơi vài phút đồng hồ như trên, là một trạng thái mà y học không thể lý giải cặn kẽ.

Người đàn ông, kẻ là chồng, kẻ đã từng yêu vợ vô bờ kia chợt ngơ ngác, bàng hoàng choàng tỉnh. Anh ngồi dậy, nhận rõ ra, nhìn rất rõ cái bụng cao lên trong trăng. Cái vòng trắng có đường chỉ đen mờ chạy dọc bụng. Tự nhiên, anh cảm giác thấy mùi mồ hôi không phải hương thơm quyến rũ, kích thích anh như xưa. Làn da trong trắng, mới trước dăm tích tắc, gây cho anh đầy ham muốn, giờ lại sực lên mùi ô uế, ghê tởm. Trong đầu của người đàn ông phút trước đang yêu thân xác Quyên tới cuồng điên, bốc lửa ấy, cái vồng bụng có sợi chỉ đen chạy dọc chợt cho anh thấy hiện lên hình ảnh rất rõ của người đàn ông khác – kẻ đưa đường – đang hối hả ôm, ghì, vuốt ve, hôn hít và sờ nắn khắp thân thể vợ anh. Và, chính cô ta, chính nó – Quyên – chứ không ai khác, cũng chủ động ôm siết chặt cứng mái đầu của người đàn ông ấy khi gã vục mặt giữa hai háng chân cô ta. Giống như bây giờ, trước đây tí thôi, cánh tay mềm, như con rắn trắng đã ôm siết lấy anh. “Thật khốn nạn. Đồ đĩ! Đồ khốn nạn!” – Anh đứng dậy, thét lên trong vắng lặng. Tiếng anh xé vỡ sự im lắng của gian phòng, tiếng gào lọt qua khe hở của các cửa sắt, làm những tấm thép, kính rung lên, nghe âm âm run rền và dài ra: … khốn na… nạn…

Tiếng thét trong đêm im ắng như tờ vỡ ra, xé tan không gian chật hẹp, làm Quyên cũng thoắt nhỏm dậy.

Bẽ bàng! Ngơ ngác! Bất ngờ và đau đớn Quyên trân trân nhìn anh.

Anh quay phắt lại nơi nằm. Anh gào lên, nức nở tới lạc giọng: “Trời ơi là trời!” Anh đổ vật xuống niệm như một gốc cây bị đốn ngã. Kinh tởm!

Tiếng thét đau xé đến tuột đỉnh của một người đàn ông từng yêu vợ vô cùng giờ đây trong đêm, giữa cái phòng bốn bề tường trắng hệt như tiếng con thú hộc lên khi bị nạn. Tiếng kêu thương đau ấy truyền ra ngoài, đập mạnh vào những tấm thép tường nhà, làm Kumar ở phòng bên thức giấc.

Kumar mở to mắt, lắng nghe trong đêm. Hình như có tiếng gì đổ vỡ. Có tiếng loảng xoảng và tiếng cửa đóng dập khá mạnh. “Họ lại cãi nhau rồi. Tại sao vợ chồng tìm được nhau lại cãi nhau vào đêm khuya thế?” Kumar thao thức không ngủ được.

Kumar chợt nhớ tới con đường mòn đầy lân tinh và lá ải mục ẩm ướt. Anh và bà chị đi mãi trong rừng gần cả tuần. Khu rừng xơ xác và hàng chục xác chết nằm ngổn ngang. Xác một phụ nữ bị chuột rừng và kiến, mối đã ăn thủng gần hết những thớ thịt trên khuôn mặt xám đen. Lúc nhúc dòi bọ bò ra từ hốc mắt. Chị vẫn kiên nhẫn tới từng cái xác hôi thối tìm chồng. Anh chợt nhớ tới đám thiêu xác chị anh. Giàn lửa phừng phừng cháy và tà áo bén lửa lem lém, khi đôi mắt anh ráo hoảnh, trân trân nhìn thân xác chị anh dần trở thành tro bụi trên giàn thiêu. Chẳng một ai than khóc, dầu trong lòng anh và bao kẻ phật tử có mặt hôm đó, vô cùng đau đớn.

Trại tị nạn Godberg có tới sáu, bẩy chục phần trăm là người Việt. Có thể tìm thấy ở đây hầu hết người của các tỉnh đông dân trên xứ sở hình chữ S. Họ đều nộp đơn xin tị nạn chính trị, nhưng thực chất chẳng mấy ai có thể đưa ra bằng cớ xác đáng về lí do chính trị. Trong đơn xin tị nạn, các lời khai đều na ná giống nhau, như một kịch bản, mà kẻ đi trước có kinh nghiệm đã mách nước, “mớm cung” cho kẻ đến sau. Những kịch bản không bằng cơ vừa ngây ngô, vụn dại, vừa tức cười tới vô lí. Người ta cứ đinh ninh rằng, những người dân bình thường nước sở tại không hiểu nhiều về Việt Nam, thì bọn chính quyền, cán bộ của Sở ngoại kiều Đức cũng ngây ngô như vậy! Nhưng chục ngàn cây số bay, địa lí hai nước xa cách, ai mà sang tận Việt Nam để thẩm tra hàng vạn lời khai?! Giấy tờ gốc, chính thức về nhân thân, như chứng minh thư hay hộ chiếu được huỷ đi, hoặc giấu nhẹm ở đâu đó, rồi phịa ra một cái tên giả, địa chỉ giả nốt. Theo họ, làm như vậy, có lẽ: bố chúng nó cũng không biết đâu mà lần! Ô hô, thế là chớp nhoáng, một con người cụ thể, có tên, có xuất xứ, thôn quán, phường xã,v.v… đều bị tự chính tay họ xoá hết dấu vết, trở thành kẻ vô tăm tích!

Song Sở ngoại kiều thực sự có ngu không? Thời đại thông tin toàn cầu, các đường truyền tin tiện dụng, nhanh như điện. Một điều nữa, kẻ tị nạn không lường thấy là, nước Đức trước nguy cơ thiệt hại lớn về tài chính, không thể tiếp tục mở toang cánh cửa, như thời “với mọi giá cho người phía Đông chạy sang phía Tây”. Chính sách khôn khéo của thời chiến tranh lạnh chợt lỗi thời! “Đã tới lúc phải tỉnh táo, áp dụng chính sách mới phù hợp với thực tế”, chính quyền Liên bang nhận ra, chi phí cho kẻ tị nạn quá tốn kém. Người ta nắm chắc tình hình Việt Nam hơn người tị nạn ngây ngô lầm tưởng! Họ biết thừa trong mọi lời khai có bao nhiêu phần là sự thật; hiểu kĩ mọi sự bịa tạc, dựng đứng, nhằm tạo nên chân dung giả, để có lí do tị nạn theo luật pháp, của cả những kẻ láu cá nhất. Ngay cả vài câu hỏi tâm lí của mấy tay nom có vẻ dễ dãi ở phòng thẩm vấn, tưởng là lăng nhăng, tưởng là vớ vẩn, cũng đủ dẫn “kẻ cần được làm rõ” bộc lộ ra cái đuôi dối trá! Song chả hơi đâu mà đôi co, vạch vòi đen trắng, trước một người đang hy vọng! Thường là cánh thẩm tra tủm tỉm cười rồi hạ câu cuối cùng kết thúc một buổi nói chuyện khơi khới: “Vâng, chúng tôi ghi nhận! Xin ông (bà) kiên trì chờ đợi phán xét của Toà án liên bang!” Đó là câu nói cuối cùng, rất lịch sự, tràn trề hy vọng, dành cho mọi đối tượng tới từ một xử xở gần 40 năm với 4 cuộc chiến đẫm máu, đang chuyển mình sang kinh tế thị trường với cả thành công và thất bại.

Như vậy, ở Sở ngoại kiều, suy cho cùng, người ta đều biết tỏng thực chất lí do xin cư trú của người Việt đều là vấn đề cơm áo gạo tiền, chứ chẳng có nguyên nhân nào khác. Họ cũng biết tỏng, sự mong muốn thoát khỏi cảnh đói nghèo đã đẩy bao người Việt tới đây bằng giá đắt, với nhiều con đường khác nhau. Kẻ từ Việt Nam tựa cơ du lịch châu Âu để đến thăm người thân cũng “lui lại” với gia đình. Đại đa số là Thợ khách hay đám bộ đội kiếm ăn tại Nga và các vùng Đông Âu dạt trôi, tứ tán mãi, nay tràn sang, đọng xuống xứ Đức. Mộng làm giầu ở nước người, qua những truyền thuyết của đám Thợ khách – Hợp tác lao động thời Đông Đức ở lại, kiếm tiền nhanh như bắt được của, khi hỗn quân hỗn quan, lúc bức tường Berlin vừa sập, khiến người ta bị hút tới đây bằng nhiều giá.

Lao động từ các nước quanh Đức tới còn đỡ tốn kém. Khoản chi phí để vượt biên giới chỉ dăm trăm USD, chứ ai lặn lội từ quê nhà sang, đã bán cả nhà cả cửa, hay vay nợ nặng lãi, để có hai ba chục ngàn đô làm lộ phí cho chuyến đi, thì thật sống dở chết dở. Nhất là khi tới trạm, chỉ cần ba bốn ngày nếm mùi cấm trại, trợ cấp nhỏ giọt nửa tháng một lần, nhận phiếu ăn thay tiền mặt, sẽ biết thực chất giấc mơ hôm nay, việc kiếm ăn tại Đức chẳng thể chộp giật như thời tranh tối tranh sáng nữa. Còn đâu cơ hội kiếm đô-la như móc túi lấy mùi xoa. Tan mộng làm giầu nơi thiên đường khi nhà cửa ở quê chẳng còn, khi quay lại Việt Nam cũng cần ít ra hơn ngàn USD, xấp xỉ cả ngàn Euru để mua vé máy bay, thì quả thật là: đi mắc núi, về lại mắc sông!

Nằm lại! Nhắm mắt nằm lại trong trại, dù hắt hiu chờ đợi! Goldberg hoá ra nơi quần tụ một đống người, đủ mọi thành phần. Tất nhiên dân tộc nào chẳng vậy, cứ ba người hợp lại một góc trời nào đó, là có thể mang theo hầu hết tập tục sống của sắc tộc ấy rồi. Đám người Viết sống ở đây có khi lên tới cả trăm người, thì rõ là Goldberg hệt như một cái làng Việt được dinh cả sang châu Âu, dinh theo mọi thói ăn nếp ở đi ở trọ xứ người…

Ban đầu người dân sở tại cũng thương họ lắm. Việt Nam, trong hiểu biết xưa nay của nhiều người Tây Đức, vẫn là xứ xở khốn khổ triền miên vì chiến tranh! Phải cưu mang các dân tộc khác bị khốn nạn bởi chiến tranh, vốn như là quy phạm đạo lí, đạo đức của một đất nước, mà cả dân tộc đều thấm nhuần sự đau khổ, khi đã trải qua hai cuộc Thứ chiến đẫm máu. Thấm thía lắm chứ, khi sau hai chiến cuộc, họ là kẻ thua trận. Đầu tiên, sự quan tâm ấy thuộc về các bà, các cô người bản địa. Người mẹ bất kì sắc tộc nào chẳng giầu lòng nhân ái, mà người mẹ Đức thì đã hai lần tiễn con đi chết trận, lại từng ăn đói mặc rét trong băng giá, trong tủi hờn, trong những tháng năm hồ hôi đầm đìa đổ trên xuống đống gạch vụn, kiên trì xây lại cả thành phố, thì làm sao giờ đây có thể vô cảm trước những con người tới từ xứ sở đã trải qua bao năm khốn khó vì chiến cuộc? Hai từ Việt Nam vang lên trong các cuộc biểu tình chống lại sự tàn bạo của nước Mỹ hôm nào, giờ trở thành dư âm xót xa gắn liền với hai từ tị nạn!

Song chỉ được một thời gian ngắn, sau sự quan sát, nhìn nhận đám dân trại Goldberg, người sở tại dù giầu lòng vị tha, dù đã sống trong một xã hội văn minh đến mấy, bắt đầu thay đổi nhận thức. Qua tiếp xúc, qua báo chí, qua dự luận, người ta bắt đầu giảm thiểu lòng trắc ẩn dành cho đám ngụ cư. Điều ấy chẳng ai muốn, vì ở đất nước này, mọi biểu hiện có tính kì thị chủng tộc vốn được những người tiến bộ coi là một tội ác, là vi phạm luật pháp.

Có hai ba điều Sở ngoại kiều thành phố rất bức bối, đó là cách ăn ở thiếu vệ sinh, thiếu nề nếp của trại viên. Người ta thực khó chịu mỗi khi kiểm tra nơi ăn nghỉ của các trại viên. Công nhan Công ty vệ sinh người bản địa, mỗi khi lái xe tới trại thu rác đã mất hết cả kiên nhẫn khi phải tiếp xúc với rác thải của người Việt. Có nói mãi cũng như nước đổ đầu vịt, khi việc phân loại rác rưởi đã có quy phạm, đã đánh màu từng thùng rác rõ ràng, cũng trở lên bất lực, vì cái tiện tay quăng rác của trại viên. Mấy người dân có nhà vườn, nhà nghỉ quanh trại đều muốn điên lên, không thể hiểu nổi. Sự bực tức đến mức giữa đêm phải nhấc máy, ca cẩm với cảnh sát, khi vô phúc ngày họ về nhà nghỉ, gặp phải đúng dịp sinh nhật hay hội hè của đám người hiểu sự tự do cá nhân là không bao giờ có giới hạn. Nhạc mở vỡ loa, tiếng hò la chúc rượu bấp chấp thời gian. Bất chấp đã tới giờ không được làm ồn, ảnh hưởng giấc ngủ của người khác. Cảnh sát cũng bó tay, sau dăm lần chạy xe bật đèn nhấp nháy, hú còi đến nhắc nhở. Kể cả biện pháp phạt vi cảnh cũng vô hiệu, khó mà lay chuyển được đám người coi trời là vung, coi luật pháp là thứ vớ vẩn chẳng cần biết của nước sở tại. Làm quái gì được họ, khi mà luật pháp Đức lại có điều khoản quy định bệnh vực kẻ thu nhập thấp. Thu nhập của trại viên đã được Sở Ngoại kiều và sở Tài Chính tính toán chi li tới từng chi tiết, để con người phải được sống mức tối thiểu nhất! Vậy là không còn khoản nào dư ra, thì cùng lắm, nếu bị phạt, mỗi tháng chỉ trừ được có 10 đồng thì đến bao giờ mới đủ số tiền nộp phạt. Vậy là câu cửa miệng: Ăn nhằm gì! Der ist mir egal – Mặc mẹ nó! Chả sợ bố con thằng nào! Đại loại như vậy, và họ bấp chấp tất cả. Phạt nữa vẫn chứng nào tật ấy. Cái thứ ở trọ, ở nhờ, ăn đợ, trong tâm lí chớp nhoáng kiếm tí rồi phắn, dường như thường trực trong nếp sống của những kẻ không hề biết một câu tiếng Đức để nhìn nhận luật pháp sở tại, sinh ra trăm ngàn chuyện nhiêu khê khác nữa!

Đã sinh hoạt làng xóm thì sinh sự lắm. Nó tách biệt hẳn với cách sống của những người bản địa – một đất nước mà hành vi cá nhân trong quan hệ cộng đồng luôn theo luật pháp, đất nước của nôi sinh triết học, của tinh thần kỉ luật và đồng đội chạm phải một sắc tộc khá lạ, khu người Việt Goldberg, đúng như một hòn đảo nhỏ, cô độc giữa châu Âu. Khép kín! Đấy là nhận xét cay đắng, gọn lỏn sau bao nhiêu năm nghiên cứu về cộng đồng người Việt của một chương trình phát trên kênh truyền hình lớn ZDF. Có thể chính vì lường được ở tập tục các nhóm dân có tính cá biệt như thế, mà Sở ngoại kiều đã tán thành phương án xây dựng trại biệt lập giữa nơi xa trung tâm!?

Thực ra những người Việt có chút ít tự trọng cũng tự thấy không ổn. Nhưng khốn nỗi, sự bằng vai phải lứa, bất kể gốc tích, tuổi tác của đám người buôn luôn cần có kẻ cầm đầu mà lại không có kử cầm đầu, dẫn tới tình trạng chẳng ai nói được ai. Chỉ tới khi dân thành phố bàng hoàng khi trông thấy cảnh sát còng tay một loạt người Việt bán thuốc lá lậu, treo tay họ lên hàng rào mắt cáo quây hội chợ, cho hàng trăm người Đức đi chợ qua cũng tự thấy xấu hổ, đã phản bội cảnh sát ngay tắp lự, mới làm dăm kẻ trong trại, quanh thành phố giật mình, thấy như chính mình bị sỉ nhục. Chuyện thật đau lòng khi ai đó thuật lại cảnh cánh buôn lậu bị bắt mấy chục tút thuốc lá ở chợ trời bán đồ cũ. Đám đàn bà con gái tiếc của, sợ bị giam, bị thu hết tiền com cóp bấy nay, đã chắp tay vái như tế sao tay cảnh sát, trẻ như con cháu họ. Có gì đâu, một câu tiếng Đức không biết, lạy nó chắc nó tha! Họ nghĩ vậy! Khốn nạn, đám cảnh sát ngố chả hiểu nếp tẻ ra sao! Cái xứ này, vốn chẳng đứa nào phải lạy đứa nào, cứ pháp luật mà chơi! Nay thấy người ta cứ chắp tay, điệu bộ như vậy, thì ai mà hiểu được! Ngài cảnh sát trẻ đâm ngơ ngác, bàng hoàng không biết xử lí sao cho đúng.

Rồi một dạo, cả thành phố xôn xao về những câu chuyện kinh hồn mà báo chí, truyền thông Đức tung lên màn hình với cụm từ bể máu – Blutbad – của đám người Việt pử Đông Berlin. Trời ạ, một đêm chém giết, bắn hạ sáu mạng người! Máu chảy từ tầng tư, đọng bầm tím từng mảng, từng cục, bám đầy tay vịn, bê bết xuống tận cầu thang tầng trệt. Rồi tới cuộc bắn nhau, giữa thanh niên bạch nhật, sau vụ thanh trừng, gây nên cái chết một ông trùm, có cái tên rất hiền lành, mơ mộng: Mây Phệ. Báo thuật lại, đạn bay veo véo, nổ chí chát giữa ban ngày ban mặt, ở khu nhà móng ngựa Rihn, nơi quần tụ cả ngàn người Việ! Cảnh tượng y như phim bạo lực Mỹ! Kinh khủng nữa là chuyện, chỉ vì muốn chiếm đoạt vẻn vẹn 5.000 Euro, hai kẻ lạ mặt xông vào một tiệm ăn, nửa đêm giết tuốt cả Tàu lẫn Việt. Sự kiện một tay người Việt trong một đêm dùng kiếm rửa hận, chém phăng vợ cũ và cả em rể lẫn em vợ trước mặt hai đứa con của gã, ngay cạnh vùng Goldberg, làm đám dân sở tại rùng mình, sởn tóc gáy… Tất cả, bao nhiêu là tai ương, bao nhiêu là hình ảnh xấu xí, bắt đầu làm dân sở tại nhìn đám người trong trại với con mắt hoàn toàn khác những buổi đầu. Lại nữa, có một ngày, báo địa phương đưa tin, ngay trong thành phố, một người Việt, trong bốn năm liền câu trộm hết sạch cá trong hồ công viên. “Nó câu thản nhiên như là ao nhà của nó mà cấm kẻ nào phát hiện!?” Dân chúng sở tại cười vào mũi đám cảnh sát, cười vào tụi Trật tự quản lí đô thị là lũ ăn bám vô dụng. Rõ ràng là cảnh sát đã đi tuần tra liên tục, đám quản lý trật tự đô, thị thuộc quận, thành phố cũng đi tua thường xuyên, thế mà tất cả như mù, để một thời gian dài, nơi nuôi cá công viên cho trẻ ranh ném bánh tiêu khiển, bị một tay nhỏ thó câu cho bằng hết. Kẻ câu trộm ranh ma ấy không tha bọn cá, từ loại nặng ba, bốn năm cân tới loại hơn yến! Hắn, một tay sinh ra trên cánh đồng chiêm nào đó ở Việt Nam có biệt tài, sát cá. “Câu cá không có cần! Chỉ với một cuộn cước quấn trong ống bơ giấu ở tay áo khoác?! “Hắn khai: “Câu nhập nhoạng tối, có hôm cả tới nửa đêm. Chở cá bằng xe đạp về trại, xả khúc, bán cho đám đồng hương quanh thành phố. Trúng mánh, được con cả yến thì cho vào tải đi các vùng xa hơn tiêu thụ.

Sau này, với bè bạn, đồng hương, hắn nói thêm: “Cá tây to xác, khoẻ như voi. Có con ròng mãi cả hai ba tiếng, nhưng ngờ nghệch lắm. Sao nó ranh như tớ được!” Đến cá mú cũng vận dụng được về độ tinh ranh vặt vãnh!

Đấy là những chuyện báo chí nói tới. Dân sở tại đâu biết hết trăm thứ bà rằn khác xảy ra như cơm bữa trong trại. Như Frau Graumann, nhân viên vệ sinh trại chứng kiến, thì báo chí mới đụng tới bề nổi của đám cư trú. May mà bà già này ít ngồi đôi mách lẻo! Nếu không, chắc dân thành phố còn kinh ngạc và bất ngờ hơn nữa và, biết đâu nếu tường hết, họ, những kẻ thích chuyện tếu của Azit Nesin sẽ hứng khởi chi tiền cho một ai đó trong trại, viết hẳn một pho sách, kiểu lão Bá Dương Trung Hoa đã viết để… cười mũi vào lũ quản lý thành phố!?

Nhưng xem ra, Godberg còn đỡ phức tạp hơn các khu đông dân Việt ở phía Đông Đức, nơi đại đa phần là đám Hợp tác lao động. Bởi tại đó, khi có giấy tờ chính thức cư trú sẽ được hợp pháp hành nghề và khi mật độ người Việt phía Đông tập trung cao hơn, cuộc sống tất đa dạng hơn, lắm chuyện hơn các khu trại, đa phần chỉ đông đúc vào ngày phát tiền và ngày Lễ.

Nói về đa sự ở trại, Godberg không khác gì tình trạng ở các trại khác của người Việt trên toàn nước Đức. Khu tắm giặt và nấu ăn vào những chiều thứ Hai bao giờ cũng là nơi buôn chuyện của “bọn rách việc”. Cũng không lạ, cánh làm chui, rửa bát trong các tiệm ăn Tầu, Việt chỉ có một ngày nghỉ duy nhất trong tháng, để trở về trại lấy tiền trợ cấp hay phiếu mua thực phẩm. Cánh buôn thuốc lá lậu, bạ ngày nào nghỉ ngày đó, thường không có ngày nghỉ, để tranh thủ nhanh nhanh mà đào vàng, cũng vì ngày phát tiền mà về trại vào dịp này. Hôm nay, họ tụ bạ ở khu bếp nấu nướng, tranh thủ tắm giặt, một dịp truyền tai nhau tin tức, đòng đưa chuyện khắp nơi.

Tuần này, Quyên và Dũng là chủ để của những kẻ rỗi hơi ở khu bếp. Đặc biệt về đứa trẻ nay mai sẽ sinh ra. Nhất là khi Dũng vốn được coi là đứa con dị bào của cái làng nhỏ này. Điều đó cũng lạ gì đâu, bởi vì cũng có hôm, trong một cuộc cãi vã ở tiệc rượu chỉ mặt Dũng, nói chậm rãi, gằn từng tiếng, toạc thẳng vào mặt anh: “Mày, một thằng, ông chả ra ông, thằng chả ra thằng. Tiến sĩ là cục c.! Đừng có nhâng nhâng học vị ở cái xứ này. Đây nhé, tao bảo cho mà biết, tất tần tật sang đây, già trẻ đều gọi là anh. Trí thức, nông dân, học giả, nhà thơ… tuốt tuồn tuột đi rửa bát, đi dọn chuồng bò, đi thu hái hoa quả, rau dưa, chớp tiền vụ thu hoạch; đi xẻ thịt trong các nhà lạnh, đi buôn lậu thuốc, hay buôn buôn, bán bán ngày ngày trên vỉa hè… Hê hê, tất cả như nhau, thì khác quái gì ông”. Cái câu nói ấy, từ miệng một kẻ cũng sang Nga một đợt với anh, chỉ lấy bằng đại học, rồi nhập vào đám lang thangh ở lại chạy hàng cho các “ốp”. Bảo anh ta đứt gánh giữa đường cũng không phải, mà con buôn thì cũng không. Sang Đức thất nghiệp, cũng không có vốn đi buôn, cùng một trại cả đấy mà sao hai người như mặt trăng với mặt trời? Người ta bảo, họ có gì ân oán với nhau từ Nga. Nhưng có kẻ lại nói, có quái gì đâu, lão Dũng vẫn nuôi hy vọng, sang bên này với bằng tiến sĩ, có ngày được Đức nó sử dụng, thì tay kia chọc chơi thôi. Chơi thôi, cái “sự chơi” khi lời nói đọi máu vốn là quan niệm của Dũng, quan niệm của một người xuất thân trong gia đình chỉ tựa vào học hành mà tiến thân, làm anh suy nghĩ, đau đớn trằn trọc mấy đêm. Nó hệt như ngọn roi tẩm đẫm thuốc độc, lạnh lùng, tàn nhẫn quất thẳng vào trái tim anh. Nhưng nó lại là một câu nói trắng phớ, phơi bày một sự thật hiển nhiên, mà bản thân Dũng cũng tự nhận ra khi lạc loài ngay chính giữa đám đồng hơn của mình. Sau bữa ấy, anh càng cảm thấy mình trở nên cô đơn hơn và sự tự xa cách, tách rời, mau chóng đẩy anh trở thành đối tượng cho vài kẻ dỗi hơi đàm tiếu.

Đám đàn bà, con gái lại có đề tài khác. Trước một người tên Quyên đẹp bất ngờ, bất ngờ về trại họ có hai phương cách bảo vệ chồng hay bồ. Phải rồi, ai mà dửng dưng được, khi nhận ra sự đe doạ của một người phụ nữ có sắc đẹp đến mê hồn, làm chính những kẻ cùng giới cũng phải công nhận: đàn bà đẹp đến như Quyên là cùng. Phương sách thứ nhất nhằm tổ chức ngoại giao phòng ngự, họ tìm cách gần gũi làm thân, xun xoe nịnh bợ. Cách thứ hai làm ngược lại. Họ tìm ngay một chỗ yếu nhất để hạ bệ, bôi bẩn, hạ nhục, sao cho hoen ố họ về mọi mặt, từ dáng điệu, hình thể, đến nước da và khuôn mặt. Trong trường hợp của Quyên, họ chọn cách thứ hai. Bởi “cái bụng phưỡn” như cái rổ úp, không thể che dấu được kia, là một bằng chứng cụ thể, hiển nhiên của một loài đĩ không thể nào chối cãi. Tất nhiên, hàng ngày Dũng nghe thấy những lời xì xào về vợ mình. Tất nhiên, Quyên cũng thấy nhiều ánh mắt, lắm bãi nước bọt và cả bao nụ cười mỉa mai, khinh bỉ của cánh đàn bà trong trại đuổi theo cô hàng ngày.

Những câu thì thào, đủ to, để đuổi theo cô như: “Nom thế mà đĩ”!, hay “Giống này, lắc l. ra, chắc chắn rơi ra một ổ c…” Có bận, có đứa không thèm nhìn cô bâng quơ nói: “Sướng nhỉ! Nó chơi chán rồi thả ra với cái bụng ễnh lên”. Kẻ bặm trợn, chuyên dựng đứng, nói thản nhiên như đinh đóng cột: “Con này, chuyên làm sa-lon di động cho các đại gia bên Nga, quen rồi. Giống má tốt cái, xa chồng thế, chịu thế đếch nào được, phải tẩn! Quen mùi mà. Lạ gì!”. Đứa tỏ ra ăn nói có văn hoa, cười cười bảo: “L.nó, gió trời”.

Với Dũng, đám đàn bà lại có những lời khác. “Tò vò mà nuôi con nhện, ngày sau nó lớn nó quện nhau đi”, “Đẹp chó gì. Đồ đĩ rạc đĩ rài”, “Có vợ mà đéo biết dạy. Đồ ngu!” Những câu đại loại như vậy, thi nhau bay tới tai Dũng, làm ngọn lửa bực tức, hằn học trong anh như được đổ thêm dầu.

Thực ra với Quyên, khi nghe những lời như vậy, cô đau lòng lắm. Nhưng con người ta, chịu mãi sự hạ nhục, cũng phải tìm ra một lối thoát! Vả lại, cái thai trong Quyên từng ngày lớn dần lên, cụng cựa nhiều hơn, sẽ như một sức mạnh huyền bí luôn mách cô nhẫn nhục. Nó giúp Quyên có nghị lực sống, cố bỏ ngoài tai những câu xỏ xiên của mấy người đàn bà ưỡn ẹo đánh mông dọc hành lang mỗi tối. Cô cố lờ đi những cái nhìn thóc mách, khinh bỉ sau lưng. Nhưng dù sao Quyên vẫn là đàn bà và khi cô tránh được, vượt qua được sự nhỏ nhen hẹp hòi của đám đông, lại rơi vào trạng thái khác, trạng thái cảm giác cô độc hơn bao giờ hết. Điều ấy thật đáng sợ, khi trong phòng chỉ có mình cô, bao quanh cô là bốn bức tường trắng toát và, cái thai cũng ngủ, không cụng quậy, hình như không muốn trò chuyện cùng mẹ.

Có một hôm, không hiểu sao cô nhớ tới chuyện khi còn ở Việt Nam, có một người không dưng khen cái tên Quyên của cô sao đẹp thế và hỏi, vì sao cô có cái tên ấy. Thoạt nghe, cô chỉ ầm ừ cho qua chuyện, song sau bữa ấy cô đã để tâm tìm hiểu ý nghĩa cái tên của mình. Cô tra từ điển và biết dăm điều về nguồn gốc tên cô. Quyên có thể là tên một loài hoa, hoa đỗ quyên với màu huyết dụ, trắng, phớt hồng, v.v… Dầu có màu gì nó vẫn toát lên vẻ bình thản, sang trọng, cao quý trong nhóm hoa của ông ngoại cô. Còn có loài chim tên Quyên, nó còn có tên là tử quy, hay chim cuốc, lại là giống chim có một lịch sử đau đớn. “Chim tử quy bay trên phương Nam, ngoảnh đầu về Bắc kêu cuốc cuốc!” Mẹ cô đọc một câu văn ở đâu đó cho cô. Khi còn trẻ, cô chỉ nghĩ mình như hoa đỗ quyên. Còn bây giờ, nhớ lại, cô cảm giác, có lẽ tên loài hoa ấy chẳng ứng vào thân phận mình. Cô là con chim cuốc, đen đủi, chân hồng, đang lẩn trong lũ gà nhà?!

Những lúc như thế, cô nhớ mẹ vô cùng. Có đêm, cô mơ thấy cái ngõ nhỏ nhà cô. Cô mơ thấy cả khu vườn của bà nội ở ngoại thành. Nhớ cái vườn nưng nức, ăm ắp hương ổi chín trong những chiều sau cơn mưa mùa hạ. Cô nhớ những đám roi mầu trắng và hồng. Sát tường sau là ba cây khế. Giời ạ, có trưa nóng tới mấy, mỗi lần ra đó, nhìn những túm quả xanh lúc lỉu, chợt mát cả mặt, chẳng thấy khó chịu dù thời khí đang oi. Cô nhớ cả đám hoa chậu, mà sớm nào cha cô khi còn sống, cũng ra tưới tắm trên ban công. Mùi mộc, loài hoa li ti trắng bạch lẫn vào giữa đám lá xanh mươn mướt, thơm mát, thanh bạch. Mùi ngâu dịu dàng thoang thoảng, toả ra khi hoa đang độ, từng chùm lấm tấm chín vàng. Những mùa cây như vậy cho không gian của cả phòng cô trở nên tinh khiết lạ thường. Có đêm, cô còn mơ thấy mình đi giữa những ngôi nhà liêu xiêu, chân tường ẩm và mốc. Nhìn thấy những đám rêu mọc nơi gốc cây bàng lớn trước nhà. Tán lá bàng xanh xanh, nõn biết, tạo nên một khoảnh mát khá rộng cho đám trẻ con quanh nhà tụ tập giữa đầu hè oi nóng, đón chờ cơn mưa mùa hạ nổi bong bóng, trên cái sân chung lát gạch vuông gan gà. Có lần cô lại mơ thấy thời cô còn là sinh viên. Thấy cô đi bộ trên dãy phố. Cô gõ guốc sơn then lanh canh trên những viên gạch hồng lát hè đường, chạy vào dưới một ban công trú mưa với đứa bạn trai. Cô biết, có đứa trong đó thầm kín yêu cô. Mưa thành phố khi đó chợt ào tới dữ dội hơn. Phơi phới trên mặt đường nhựa sạch bong một màu bụi nước li ti, trắng xoá. Trong tiếng động của mưa vỗ trên các tàn lá, gõ lên các mái nhà và đường phố khi đã trút đi hết cát bụim rác rưởi, trở nên đen bóng, sạch sẽ – cô nghe thấy có tiếng ngân nga, ngân nga của bản đồng ca mưa thành phố quen thuộc tự bao giờ…

Tỉnh giấc, cô thấy buồn vô tận và sau đó thường trằn trọc tới tận sáng.

Sẩm tối đầu tuần, người gác trại đột ngột gọi: cô có điện thoại. Quyên ra khỏi phòng không đầy hai phút. Dũng hỏi, ai gọi cho cô đấy? Quyên yên lặng một lát. Cô không phải là loại người dối trá. Cô ngập ngừng. “Thằng Hùng gọi đến phải không?” Dũng dồn hỏi. Đôi mắt anh đầy nghi ngờ. “Không! Bạn anh ấy gọi! Anh ta báo cho em, anh Hùng đã hồi tỉnh, nhưng một chân bị giập nát, khéo phải cắt”. “Trời ơi! Hoá ra cô yêu thương nó. Cô vẫn tơ tưởng tới nó và mong chờ nó!”

Nói hết lời ấy, Dũng tự thấy đau nhói, anh như con thú bị thương, lồng lộn đi lại trong phòng. Trong đầu anh khi đó, lòng ghen tuông làm hiện lên rõ hình ảnh thằng đàn ông, mà anh nào đâu rõ mặt, giằng xé, âu yếm sờ mó, vuốt ve Quyên. Anh tưởng tượng thấy bầu vú của Quyên bị bàn tay thô thiển ấy bóp nặn, vuốt ve, mút mát. Anh thấy cả âm hộ của vợ anh, đám lông như mun, đen ngun ngún, mượt tốt như hoa cỏ mùa xuân, cái miện đỏ tươi mà anh thường hôn hit, bị bộ râu quai nón và cái khuôn mặt có hàm bạch ra chà xát. Khốn nạn, không hiểu sao anh cứ nghĩ “cái thằng chó” mới thoáng gặp ở đêm đưa đường hôm ấy có cái khuôn mặt đểu cáng rõ tới thế. Sự tưởng tượng càng rõ, càng làm anh đau đớn và căm thù ngùn ngụt. Nhưng nó thì ở xa! Vả lại giờ có gặp nhau, anh cũng tự biết, chẳng làm gì được nó, khi chúng, lũ người ấy là “bọn thảo khấu thứ thiệt”. Anh nhìn Quyên, sao có thứ người trơ tráo đến thế bên anh! “Đồ đĩ! Cô đúng là con đĩ!” Dũng gào lên.

Con người ta, khi ghen tuông, nóng giận dễ thường phải quay lại thời thú mang hình người. Dũng bây giờ giống như một tinh tinh đực, tâng tâng lồng lộn khắp phòng.

Anh đập phá cho tan nát tất cả, dầu vật dụng trong phòng chả nhiều nhặn gì. Những tiếng vỡ của mấy cái cốc, cái bình thuỷ tinh đựng nước, tiếng drap và gối bị xé, cốc chén ném vào kính, và tơ lông gia cầm nhồi trong chiếc gối tung ra, bay bừa bãi… đủ làm Quyên hoảng sợ. “Cút, xéo khỏi nơi đây!” Dũng thét lên.

Quyên bàng không sao kể xiết. Dũng đẩy sấp ngửa Quyên ra khỏi phòng: “Đồ đĩ! Đồ đĩ! Cút ngay!”

Đó là một đêm không có tuyết nhưng rất lạnh. Trời thăm thẳm cao và tím. Quyên vội vã chạy trên hành lang bước ra ngoài nhà và ngửa mặt lên trời. Bầu trời mùa đông lấp lánh ức vạn ngôi sao như giễu cợt thân phận của cô. Cô bỗng ngào kêu nấc lên: “Mẹ ơi!”

Quyên ngước mắt nhìn trời thăm thẳm tím ngắt khi ấy. Cô như thấy khuôn mặt của mẹ trên cao thăm thẳm hiện ra nhìn cô không nói. Nhưng cô không thể bay về với mẹ. Cô im lặng đau đớn tới mức tưởng như không thể đau đớn hơn giữa trời khuya, bên cạnh rặng hồng có những bông hoa hết vụ đã tã tượi. Mới sớm nay thôi, cô ngao ngán khi nhìn thấy những cánh hồng mỏng theo gió la đà rụng xuống mặt đất. Những cánh hồng rụng xuống, nhìn thoáng như những vệt máu hồng loang lổ phẩy trên nền đất xám, còn cố thả vào không gian mùi hương không bao giờ lẫn vào mùi hương của các loài hoa tầm thường khác.

Khí lạnh buốt giá ngấm vào tận áo trong làm Quyên bừng tỉnh. Đi đâu bây giờ? Thành phố lạ hoắc, không ai quen biết! Xung quanh toàn một màu đen mênh mang làm Quyên hoảng sợ. Cô quay lại, ngọn đèn bên cửa ra vào vẫn toả quầng sáng vàng lạnh. Cô lại vòng lên cầu thang.

Nơi đầu hành lang, có căn phòng nhỏ khoảng sáu mét vuông, vẫn là nơi để dụng cụ vệ sinh của Frau Graumann. Cửa khép không kín. Cô đẩy cửa.

Căn phòng có cái ghế đệm hẹp. Góc trong dựng chổi, bàn đẩy lau nhà và hai ba chiếc xô nhựa. Quyên nhìn thấy con dao nhỏ và mấy cái thìa trong chiếc cốc sứ. Chắc là của người làm vệ sinh! Quyên khép cửa và ngòi xuống đệm, chân đạp xuống nền sắt không trải thảm, lạnh ngắt. Trong bóng tối, cô ngồi im, bất động như tượng đá. Lại nhớ tới mẹ! Trong đầu cô chợt thoáng hiện cảnh ngày cưới. Khuôn mặt tươi tắn của chồng lập tức nhoà đi và thay vào đó là bộ mặt giận dữ và ánh mắt đầy tia lửa của Dũng khi nãy. Cô chợt nhớ tới cánh rừng có thảm lá rụng vàng ươm và căn nhà gỗ đã giam cô. Nhớ khuôn mặt của Hùng khi gã đè cô xuống để hiếp cô lần đầu. Lòng cô bỗng trào lên niềm căm thù khôn tả lũ đàn ông khốn kiếp. Căm thù kẻ hiếp cô rồi yêu cô, căm thù cả chồng cô, người đàn ông từng thế thốt, yêu thương…

Cuộc sống sao khốn nạn vậy? Quyên cắn môi muốn bật máu. Tại sao cô lại rời bỏ quê nhà, gia đình, nghe theo chồng chạy đi, để thân phận cô như ngày hôm nay? Tại sao cô lại rơi vào tay Hùng và có thai, để chính người chồng, người ngày xưa cô yêu thương nhất, giờ lại khinh bỉ, hắt hủi? Trời ơi! – Quyên nấc lên. – Giá mà cô có tiền để rời khỏi chốn này ngay lập tức, để trở về với đất nước? Quay về nhà! Cô chỉ có vài trăm bạc mà Hùng bí mật nhét vào ví cô hôm nào và nếu đủ tiền quay về, cũng còn mặt mũi nào nữa để gặp lại gia đình cô? Bất giác khi nghĩ vậy, cô cảm thấy ghê tởm chính thân thể mình. Quyên không khóc, nhưng tự thấy lòng tan nát, chán chường vô cùng. Vào phút giây hoảng loạn ấy, cô bỗng nhìn rõ con dao nhỏ trong chiếc cốc. Loại dao gọt trái cây, bản mảnh, rất sắc. Cô ướm thử lưỡi dao vào móng tay và nằm xuống mảnh gỗ hẹp.

Giữa bóng tối, Quyên thầm thì: “Mẹ ơi, xin mẹ tha thứ cho con!” Cô chần chừ vài giây, rồi tì mũi dao lên nơi mạch máu xanh vẫn thoi thóp đập trên cổ tay. Lại yên lặng một lát, dường như để suy nghĩ một lần nữa, cô quay mặt đi.

Cứa mạnh!

 




 

Báo TINTUCVIETDUC-Trang tiếng Việt nhiều người xem nhất tại Đức

- Báo điện tử tại Đức từ năm 1995 -

TIN NHANH | THỰC TẾ | TỪ NƯỚC ĐỨC