Thịt nạc lợn (trư nhục) có vị ngọt, mặn, tính bình; vào tỳ vị thận. Có tác dụng tư âm nhuận táo. Dùng cho các trường hợp nhiễm khuẩn, sốt cao, mất nước, ho khan, táo bón, đái tháo đường, suy kiệt thiểu dưỡng. Dùng 100 – 500g; nấu, hầm, chiên, nướng, quay, rang.
Thịt mỡ lợn (trư chi cao) vị ngọt, tính lương, vào phế, đại tràng. Có tác dụng bổ hư nhuận táo. Dùng cho các trường hợp ho khan, táo bón, khô da, nứt nẻ da. Liều dùng 10g. Không dùng cho người đang bị cảm cúm các loại (cảm hàn, cảm nhiệt, trúng thử) và tiêu chảy.
Chân giò (trư đề) vị ngọt, mặn, tính bình, vào kinh vị. Có tác dụng bổ huyết, thống nhũ, sinh cơ liền sẹo. Dùng cho các trường hợp huyết hư, suy nhược, sản phụ ít sữa, mụn nhọt lở ngứa. Dùng 1 hoặc 2 chân lợn dưới dạng nấu, hầm.
Bóng bì lợn (trư phu) là bì lợn đã được chế biến nướng phồng, được đem nhúng nước cho mềm, để nấu các món canh lẩu, một kiểu ăn nhẹ dễ tiêu. Các món ăn có bóng đều có tác dụng dưỡng da, nhuận tràng. Bóng bì lợn vị ngọt, tính lương; vào thận, phế. Có tác dụng nhuận phế, trạch phu (bổ phế dưỡng da), bổ âm. Dùng cho các trường hợp khô rát, bong da, đau sưng họng.
Để làm bóng phải chọn bì lợn ngon, không dùng bì lợn nái, lợn già. Dùng 30 – 60g bóng khô đã chế hoặc 50 – 80g bì lợn tươi dưới dạng luộc, nấu, hầm. Không dùng cho những người đang có thực nhiệt (nhiễm khuẩn, sốt cao).
Lưu ý: Thịt lợn có giá trị dinh dưỡng cao nhưng tránh dùng nhiều (đặc biệt là thịt lẫn mỡ), dễ làm tăng nồng độ cholesterol trong máu dẫn đến xơ mạch, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, béo phì (tạng đàm thấp).
Một số món ăn – bài thuốc từ thịt lợn và bóng bì lợn
1. Canh thịt lợn, kỷ tử
Ảnh minh hoạ: Emdep.vn
Thịt lợn nạc 200g, kỷ tử 15g, đương quy 20g, đại táo10 quả, thêm nước gia vị nấu thành canh, vớt bỏ bã đương quy.
Dùng cho các trường hợp đau đầu hoa mắt chóng mặt, cơ thể suy nhược, huyết hư thiếu máu, sau khi bị bệnh dài ngày, mỏi mệt gầy yếu (bổ âm, bổ huyết, bổ can thận).
2. Nước thịt lợn hầm
Thịt lợn tươi 500g thái lát to cho nước, đun to lửa, hớt bỏ váng bã, gạn lấy nước, thêm muối tiêu, gia vị, để nguội cho uống.
Dùng cho bệnh nhân bị nhiệt bệnh sốt cao mất nước.
3. Canh chân giò
Ảnh minh hoạ: phununet.com
Chân giò 2 cái, mộc thông 21g. Trước tiên đem mộc thông nấu lấy nước (bỏ bã) đem nấu với chân giò, thêm gia vị thích hợp.
Dùng cho sản phụ sau đẻ bị tắc sữa, ít sữa.
4. Chân giò hầm lạc nhân
Chân giò 2 cái, lạc nhân 50g, đại táo 10 quả, thêm gia vị hầm nhừ.
Dùng cho các trường hợp thiếu máu, giảm bạch cầu và tiểu cầu.
5. Cao bì lợn
Bì lợn 60g, cạo sạch, hơ trên bếp than cho chín phồng, đem nấu thành cao lỏng, cho thêm bột gạo rang và mật nấu sắc thành cao. Ăn khi đói, mỗi lần 1 thìa, ngày 3 – 4 lần.
Dùng cho các trường hợp khô rát da, bong da mặt và nhăn thành nhiều nếp, các trường hợp đau sưng họng, môi khô họng khát, cảm giác nóng sốt sau bệnh viêm nhiễm dài ngày, táo bón kiết lỵ.
6. Canh bì lợn, đại táo
Bì lợn tươi 500g, đại táo 250g, đường phèn lượng thích hợp. Đem bì lợn làm sạch thái lát dài, thêm nước nấu dạng canh lỏng, khi bì lợn đã chín nhừ cho thêm đại táo đã tách bỏ hột, tiếp tục nấu cho chín nhuyễn; cho tiếp đường phèn khuấy đều, để nguội. Chia ăn vào các bữa phụ điểm tâm thường ngày.
Dùng cho các trường hợp xuất huyết dưới da, chảy máu chân.
Nguồn: SKĐS