Tập tục, thói quen nghìn xưa để lại, có một nét tốt đẹp, rất bình dân, dễ làm, ăn cho qua bữa, thế mà không ngờ ngày nay lại được tôn lên thành đặc sản. Đó là cơm lam.
Có vùng, người đi rừng mang cơm nắm đi theo. Đó là thứ xôi nếp (miền núi quen ăn cơm nếp hơn cơm tẻ) bọc trong lá chuối, kèm thêm chút muối vừng, hoặc chỉ là muối trắng. Cũng nhớ thêm hạt muối trắng ở miền núi được coi giá trị quí như vàng. Khát thì đã có các dòng suối. Tốt hơn, nếu tìm được một số rễ cây hoặc ống nứa, vạt đi một đoạn, hứng miệng vào mà lọc lấy ít giọt nước ngọt, vừa lành vừa sạch lại vừa ngon.
Còn cơm lam là gì? Miền xuôi ăn cơm tẻ thổi bằng nồi trên các loại bếp. Còn người đi rừng thì không thể mang nồi niêu bát đũa đi theo. Người ta chỉ mang theo ít gạo nếp, vừa nhẹ vừa thuận tiện. Làm việc hì hục một buổi, nghỉ chân dưới bóng lá cây rừng, nhóm bếp bằng cành khô lá rụng (mùa rét còn để sưởi nữa). Một người đi tìm mấy cây nứa tép, đem về bên bếp lửa. Cho một ít gạo nếp vào ống nứa, đã sẵn có ít nước ngọt trong lòng cây nứa. Nút thật chặt lại, đem nướng ống nứa trên lửa cháy và than hồng. Vừa nghỉ chân, vừa chờ cơm chín, vừa nghe tiếng chim kêu vượn hót, cảnh ấy thật thần tiên, miền xuôi không thể nào có được.
Khi ống nứa cháy xém bên ngoài như bọc một lớp mực đen, đem ra chẻ dần phần nứa cháy đi, lột hết phần trong ống nứa hãy còn trắng. Thế là có trong tay một thỏi cơm nếp thơm lừng, tròn như cái dùi trống trường học, thơm hơn mùi cốm tươi, màu trắng ngà và hiện lên hình ảnh những hạt xôi nếp vân vân vi vi. Cứ cầm thỏi xôi đưa lên miệng mà cắn mà ăn, với muối hoặc với ít thịt khô mang theo đã nướng chín trên cùng bếp lửa.
Món cơm lam ấy được truyền từ đời này sang đời khác. Cũng không biết ai là tác giả đầu tiên nghĩ ra chuyện dùng ống nứa tươi để thay cái nồi hay cái niêu, và đã mấy trăm năm hay đã nghìn năm. Ta cũng nhớ thêm, cỗ cúng thường có đĩa xôi nếp. Đó là tàn dư của nghìn năm mở đất, cơm nếp là món ăn chính của các dân tộc chung sống trên dải đất này. Càng lùi về đồng bằng, chúng ta dần càng quen ăn cơm tẻ nhiều hơn, nhưng không thể quên thuở xa xưa, tổ tiên ông bà đã quen ăn cơm nếp, hơn nữa, cơm nếp chỉ cần ít thức ăn kèm theo. Và cơm lam là một sáng kiến tài hoa và thông minh của đồng bào ta khắp miền núi cao rừng sâu. Đương nhiên không phải rừng trồng chỉ một loại cây mà rừng nguyên sinh nhiều tre nứa mọc xen vào cổ thụ.
Món ăn lạ, đẹp lại hấp dẫn, đã trở thành niềm yêu mến của đồng bằng. Lâu nay nhiều nhà hàng lớn, cả khách sạn, dựng theo kiểu nhà sàn, có các món măng chua, tai lợn muối, và cơm lam được bày lên mặt đĩa. Gọi là cơm lam, nhưng khách hàng ít khi nhìn thấy ống nứa ấy được trực tiếp nướng trên bếp lửa, có người ngờ rằng người ta thổi cơm nếp rồi nhồi vào ống nứa, chẻ ống nứa ra là có cơm lam, một thứ cơm lam không thật. Miếng cơm lam cứng, khô và không thơm. Nếu đó là thật thì tiếc cho cơm lam đã bị người ta lợi dụng, chỉ còn là cái vỏ chứ không có hồn.
Chỉ có cơm lam được làm ra trong rừng sâu bởi những bàn tay lao động, những bàn chân quen giẫm gai rừng, những tâm hồn chất phác, mộc mạc…mới là đáng quí.
Chắc không một người miền rừng nào, từ cụ già đến các trẻ thơ, không ai là không biết cơm lam, không ai là không từng ăn món cơm lam quí yêu như thế
Theo CATPHCM.