Nổi tiếng là nền kinh tế số 1 Châu Âu nhưng Đức lại có chế độ làm việc khá “tình người” và hiệu quả.
Thậm chí tại những công ty lớn như Mercedez Benz, các kỹ sư có thể lựa chọn làm 28 tiếng mỗi tuần (tương đương 5,6 tiếng mỗi ngày trừ thứ bảy chủ nhật) trong vòng 2 năm, sau đó tăng lên 35 tiếng mỗi tuần tại tập đoàn.
Mục đích chính của quyết định này là giảm thiểu số thời gian phải đến công ty của những nhân viên có thể lao động tại nhà. Tất nhiên, mức lương của nhân viên sẽ bị điều chỉnh cho phù hợp với phong cách làm việc mới. Những người muốn làm thêm với 40 tiếng mỗi tuần (8 tiếng mỗi ngày) có thể đăng ký với công ty.
Hiện nay, lao động tại Đức đang có quyền lực khá lớn do tỷ lệ thất nghiệp cực thấp trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế khá mạnh. Tính đến tháng 6/2019, tỷ lệ thất nghiệp tại Đức chỉ vào khoảng 3,1%, thấp nhất trong lịch sử.
Theo một nghiên cứu của PwC, chỉ khoảng 10% số người trong độ tuổi 20-24 tại Đức là không có việc làm cũng không đi học (Neet Rates), con số thuộc hàng thấp nhất thế giới. Nếu tất cả 35 nước thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cũng đạt được con số như vậy thì nền kinh tế toàn cầu sẽ có thêm 1,1 nghìn tỷ USD.
Trong bảng xếp hạng chỉ số lao động trẻ (YWI) của PwC, Thụy Sĩ là nước đứng đầu cả về số người trẻ có việc làm lẫn đang đi học. Tiếp theo đó là Đức. Nước Mỹ đứng thứ 10 trong bảng xếp hạng, còn Anh đứng thứ 21.
Nghiên cứu của PwC chỉ ra nếu Italy giảm tỷ lệ trên xuống bằng nước Đức thì nền kinh tế này sẽ tăng thêm được 156 tỷ USD cho GDP.
Vậy tại sao lao động Đức làm ít mà vẫn đưa nền kinh tế thành số 1 Châu Âu? Tại sao doanh nghiệp giảm giờ làm cho nhân viên nhưng tỷ lệ thất nghiệp của nước này vẫn ở mức thấp?
Không coi trọng tấm bằng đại học
Nguyên nhân đầu tiên khiến lao động Đức làm việc ít hiệu quả cao là chất lượng lao động. Nhiều sinh viên Đức đã thấm nhuần tác phong lao động từ trên ghế nhà trường, qua đó làm việc hiệu quả cho năng suất cao dù giảm thời gian có mặt ở công ty.
Đối với doanh nghiệp, lao động giỏi là những người có tác phong, ý thức và trách nhiệm chứ không quan trọng họ học trường nào. Một anh thợ máy chăm chỉ có trách nhiệm sẽ được các doanh nghiệp Đức ưa thích hơn những cử nhân tài chính chẳng có kinh nghiệm gì ngoài tấm bằng.
Cụ thể, nhiều công ty tuyển dụng đến tận các trường học. Họ sẽ kết hợp đào tạo, thực hành cùng sinh viên nhằm đào tạo và lựa chọn ngay từ ghế nhà trường. Hầu hết các doanh nghiệp cũng hướng đến các lao động trẻ và cố gắng tuyển dụng, đào tạo nhân viên khi họ mới chỉ là sinh viên.
Tại Đức, hình thức kết hợp vừa học vừa làm được gọi là “Dual Training”. Học viên không chỉ tiếp thu kiến thức trên lớp mà còn thực hành ngay tại công ty, thấm nhuần văn hóa làm việc, ý thức trách nhiệm cũng như chịu áp lực công việc.
“Trong tương lai, robot sẽ thay con người vặn ốc vít. Chúng tôi chẳng cần những công nhân tay nghề thấp như vậy nữa. Cái chúng tôi cần là những con người có thể giải quyết vấn đề rắc rối mà máy móc không làm được”, một giám đốc nhà máy Đức nói với tờ The Atlantic.
Hệ quả tất yếu là các doanh nghiệp Đức cần sinh viên có kinh nghiệm luôn chứ chẳng cần những “con mọt sách”.
Một ví dụ nặng nề về bằng cấp cũng như kiểu đào tạo cũ ngày nay là nước Anh khi có tới 17% giới trẻ không có việc làm cũng như không đi học. Nếu tỷ lệ này rơi xuống 10% như Đức, kinh tế Anh sẽ có thêm 65 tỷ USD cho GDP.
Hầu hết các giáo viên Đức đều khuyên học sinh rằng hãy chắc chắn làm 1 thứ tốt rồi mới mơ tới cái lớn lao hơn.
Ngay cả chính phủ Đức cũng tạo điều kiện cho những lao động tay nghề cao học tập tiếp. Họ có thể quay lại trường học tập chuyên ngành mới nếu thấy sự nghiệp không thoải mái như ý muốn, hoặc chuyển sang làm thực tập, học nghề của các công ty ngành khác nếu thấy hứng thú.
Đối với người Đức, học tập là sự nghiệp cả đời chứ không phải để lấy tấm bằng. Các doanh nghiệp nước này cũng cần lao động có tay nghề chứ chẳng quan tâm họ học trường nào.
Giờ làm việc là phải làm việc
Trong văn hóa lao động của Đức, nhân viên làm việc là sẽ tập trung vào nhiệm vụ được giao mà không làm thêm những thứ gì khác ngoài công việc. Những hành động như lướt mạng xã hội, buôn chuyện, nghỉ giải lao la cà ngoài quán cà phê… đều không được chấp nhận trong văn hóa làm việc của Đức và sẽ bị trừng phạt thẳng tay. Thậm chí, một email cá nhân trong giờ làm việc cũng bị nghiêm cấm.
Có lẽ văn hóa này bị ảnh hưởng từ chế độ quân sự lâu dài của Đức qua 2 cuộc Thế chiến, khiến tác phong quân đội ngấm vào máu của từng người dân. Đối với người Đức, làm việc là thực sự làm việc.
Nói thẳng
Một văn hóa quân đội nữa được lao động Đức thực hành là nói thẳng. Nhân viên Đức thường trao đổi trực tiếp với nhau về công việc chứ không thích nhẹ nhàng, cả nể, ý tứ hay thì thầm. Trong buổi họp nhân viên có thể báo cáo trực tiếp về tình hình công việc mà chẳng cần xem ý tứ của sếp bởi những nhà quản lý Đức cũng có tác phong như vậy.
Trong doanh nghiệp Đức, công việc là công việc, không có chuyện ý tứ, lịch sự hay nói bóng gió gì cả. Họ tập trung tối đa cho làm việc và giải quyết nhiệm vụ nhanh hơn so với người Anh hay Mỹ.
Làm hết sức, chơi hết mình
Do tập trung làm việc hiệu quả nên người Đức có khá nhiều thời gian rảnh và đương nhiên, họ cũng rất biết cách thư giãn sau khi kết thúc công việc. Đặc biệt, chế độ lao động của Đức khá chặt chẽ, qua đó các ông chủ không thể bắt ép nhân viên làm thêm mà không trả lương, hoặc giao nhiệm vụ sau giờ làm nếu không có thỏa thuận trước.
Người Đức rất tách bạch giữa công việc và đời tư. Thậm chí chính phủ Đức đã ban hành quy định cấm các doanh nghiệp gửi email công việc cho nhau sau 6 giờ tối để đảm bảo lao động được nghỉ ngơi. Đức cũng là quốc gia có lượng ngày nghỉ phép được trả lương rất cao với trung bình từ 25 – 30 ngày mỗi năm, trong đó chính phủ quy định tối thiểu phải là 20 ngày.
Đây là lý do chúng ta có thể thấy trên phim ảnh các gia đình Đức thường xuyên tổ chức những đợt nghỉ phép dài ngày mà chẳng ảnh hưởng mấy đến công việc hay thu nhập của họ.
Xét cho cùng, lao động dài hay ngắn không quan trọng, cái chính là ý thức trách nhiệm và hiệu quả làm việc. Điều này đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bên, từ chính phủ đến nhà trường, doanh nghiệp và thậm chí là toàn xã hội.
Theo Nhịp Sống Kinh Tế