Khi tôi viết về cuốn tự truyện của Lê Vân. Tôi gọi chị là một ví dụ đúng cho việc tập nói thật của chúng ta. Dù thế nào thì việc dám nói ra sự thật cũng là điều chúng ta cần suy nghĩ. Chúng ta nói dối hoặc nói vòng vo quá lâu rồi. Đã đến lúc chúng ta phải nói thật cho dù việc nói thật của chúng ta còn có những vụng về và thậm chí bị kết án vì một lý do khác nữa.
Như một cái cây sau bão
Cuối cùng tôi đã ngồi xuống và viết về người đàn bà hồng nhan bạc phận này. Tôi dùng chữ đó có thể làm chị phiền lòng. Nhưng dù chị có vậy tôi cũng phải nói với chị rằng: bất kỳ ai đã sinh ra và đi qua đời sống này, người đó phải đi qua tất cả những gì đời sống ấy có.
Khi tôi ngồi uống cà phê với chị trong một buổi sáng cuối năm 2006, tôi muốn về nhà ngay lúc đó và ngồi xuống viết tất cả những gì tôi nghe chị nói và những gì tôi suy ngẫm từ những câu chuyện rời rạc của chị. Nhưng tôi phải thú thực rằng chỉ sau đó một ngày, tôi đã ngại viết về những câu chuyện của chị. Tôi ngại cho chị và ngại cả cho tôi.
Chị vừa đi qua những ngày thật khó khăn với người thân, bạn bè, đồng nghiệp và xã hội. Những ngày ấy chứa đựng tất cả: yêu thương, chia sẻ, nổi giận, mắng nhiếc, hằn học, chân thực, giả dối…Điều đó cũng chẳng lấy gì làm lạ. Ai cũng phải đi qua tất cả những thứ ấy. Không ai trốn thoát được. Tôi cũng thế.
Nhưng cuộc sống lớn như chẳng để ý đến những ngớ ngẩn, hẹp hòi của chúng ta. Cuộc sống vẫn đẹp. Đó là chân lý. Nhưng nó đẹp không phải vì chúng ta che giấu những tồi tệ của chúng ta trộn lẫn trong nó. Nó đẹp nhiều hơn bở sự nói thật của chúng ta. Tôi đã có những giây phút lưỡng lự khi viết dòng chữ này. Nhưng giờ đây tôi đã viết.
Buổi sáng mùa đông ấy. Chúng tôi ngồi uống cà phê. Chị mang vẻ đẹp của một cái cây sau bão. Một chút rối bời và một chút mệt mỏi vẫn còn đọng trên gương mặt như còn quá ít cảm xúc của chị. Một vài người đi vào quán cà phê đó đều cố ý đi qua chiếc bàn chúng tôi đang ngồi để nhìn chị. Nhìn với con mắt tò mò để tận mắt chứng kiến người đàn bà viết một cuốn sách mà chưa có ai dám viết về cha mẹ mình, về những người ruột thịt, về những người tình và những người chồng.
Có hai người tôi quen cũng đến bắt tay tôi nhưng mắt lại nhìn chị. Có thể những người bạn tôi lúc đó sẽ tự hỏi cái lão Thiều gù này ngồi với người đàn bà kia để làm gì nhỉ. Thật đơn giản, ngồi để nghe những câu chuyện rời rạc và mệt mỏi của một người đàn bà, để biết thêm một số phận không yên bình. Để muốn biết những gì đã xẩy ra trong tâm hồn của một người như thế.
Với giọng nói hầu như không thay đổi nghịp điệu theo cảm xúc, chị kể với tôi chị vừa tìm được một bạn đọc kỳ lạ. Một người đã chia sẻ với chị như một tri âm. Đặc biệt là khi nói đến câu chuyện đó, chị như một đứa trẻ tìm thấy bóng dáng một người thân trong cái nhà trẻ xa lạ của ngày đầu tiên bị gửi vào đó.
Chị không tìm một đồng minh. Chị không tìm một nhân chứng. Chị tìm một tri âm. Cái làm cho con người rơi vào cô đơn trong chính chốn ồn ào nhân thế là không tìm được tri âm của mình. Cuộc đời luôn luôn đẩy chúng ta vào một trò chơi ác độc. Nó không cho chúng ta tìm thấy tri âm của mình ở chính nơi có những người chung giòng máu với mình.
Một sự thật làm chúng ta sợ hãi là ngay chính cha mẹ ta sinh ra ta và che chở ta cả đời mà hầu như lại không trở thành tri âm của ta. Đấy là sự thật. Đấy cũng là bi kịch. Ta kính cha, kính mẹ, ta sẵn sàng chết vì cha, vì mẹ ta. Thế mà ta lại tìm thấy tri âm ở một kẻ khác có khi chỉ đi qua đời ta có một lần. Và sau những cơn sóng gió kể từ khi cuốn tự truyện ra đời, chị vẫn lang thang tìm một tri âm cho mình.
Chị đã một mình trở lại ký ức để gọi tên những người ruột thịt, để tìm ra kẻ tri âm. Nhưng chị đã thất bại. Giữa một gia đình của những nghệ sỹ danh tiếng, chị không tìm thấy tri âm. Điều ấy ngẫm kỹ đâu có gì khó hiểu. Chị không có lỗi. Những người ruột thịt của chị không có lỗi. Đấy chỉ là cách đi quá bí ẩn, lạ lùng và quá khắc nghiệt của đời sống mà thôi.
Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa lý giải thật thoả đáng cho chính tôi cái quyết định của chị rời bỏ con đường nghệ thuật của mình. Chị đã bước vào con đường nghệ thuật từ khi còn nhỏ. Thế mà sau mấy chục năm theo đuổi bỗng một ngày chị chia lìa nó và không một lần ngoái lại. Vì sao? Tôi hỏi chị lần thứ nhất, lần thứ hai và lần thứ ba. Vẫn chỉ một câu trả lời đầy vô cảm: nhạt nhẽo.
Một câu trả lời không cường điệu. Một câu trả lời không một chút luyến tiếc. Tôi nhìn thấy điều ấy. Nhưng tôi vẫn cứ băn khoăn. Có lúc tôi tin lời nhận xét của một số người biết chị rằng chị là người đàn bà giá lạnh. Nhưng tôi nghĩ đó không phải là sự giá lạnh của tâm hồn mà đó là một ý chí. Bản thân tôi đã chứng minh cho tôi điều ấy. Vì có những thứ làm tôi cảm thấy vô cảm mà nhiều lúc tôi vẫn lưỡng lự hoặc vẫn dày vò khi có ý định đoạn tuyệt nó. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn không sao đến được tự do mà tôi nhìn thấy nó cách chỉ một bước chân.
Tôi đã tâm sự với một người bạn về sự đoạn tuyệt của chị với con đường nghệ thuật của chị. Bạn tôi không đồng ý với tôi rằng chị biết đi đến tự do cá nhân của mình. Bạn tôi nghĩ chị giá băng, nghĩ chị vô cảm, nghĩ chị quá coi thường thiên hạ. Ý kiến của bạn tôi đã có một khoảnh khắc nào đấy làm tôi lúng túng. Nhưng ngay sau đó tôi lại trở về với cách nhìn của tôi. Chị đã nhận thấy sự nhạt nhẽo trong cái nghệ thuật chị theo đuổi suốt mấy chục năm. Không phải cái nghệ thuật ấy nhạt nhẽo mà có lẽ bởi những ai đó và những cái gì đó mang danh nó nhạt nhẽo.
Chị đã đi qua ba cuộc hôn nhân trong một nửa cuộc đời. Một người đàn bà như thế thì phải có một trái tim khát khao yêu thương vô cùng mãnh liệt và cũng là người phải chịu kiếp trầm luân. Việc yêu và sống với những người đàn ông đã có vợ là sức mạnh của tình yêu hay là thói vô đạo đức? Ai dám trả lời điều này một cách chắc chắn khi không đặt mình vào thực tế đó?
Trả lời điều này không dễ dàng một chút nào đối với quá nhiều người. Bởi thế mà chị vừa được chia sẻ vừa bị lên án. Nhưng những quyết định trong tình yêu của chị hoàn toàn giống cái quyết định rời bỏ vĩnh viễn con đường nghệ thuật chị có không ít thành công mà nhiều nghệ sỹ mong muốn.
Một buổi sáng ngồi uống cà phê không đủ để tôi tìm ra toàn bộ sự thật về chị. Nhưng đôi khi chúng ta phải dùng toàn bộ những trải nghiệm kể cả những sai lầm chết người của chúng ta để lý giải một điều nào đó rất giản đơn của người bên cạnh. Nếu không chúng ta sẽ trở thành những kẻ đạo đức giả hoặc là những kẻ vô tâm.
Trong ba cuộc hôn nhân đều không có cuộc hôn nhân nào chính thức. Chị chưa một lần đăng ký kết hôn với bất cứ người đàn ông nào. Nhưng cuộc hôn nhân thứ nhất vẫn là cuộc hôn nhân để lại trong lòng chị cho tới tận bây giờ những ký ức đẹp và buồn nhất. Chị không phải là người chạy hết cuộc hôn nhân này đến cuộc hôn nhân khác. Chị chạy theo con đường mà chị tin sẽ đưa chị tới hạnh phúc và bình yên. Tôi thấy chị chạy và chạy cho tới tận bây giờ vẫn chưa dừng lại. Hình ảnh một người đàn bà như thế sẽ làm chúng ta nổi giận hay đau xót, cảm thông???
Nếu Lê Vân là một người ruột thịt của ta thì ta sẽ lo lắng và thương chị như thế nào. Có ai căm thù con gái mình, chị gái mình hay em gái mình và uất ức nguyền rủa sao mày lăng nhăng thế, sao mày không chỉ sống với một thằng đàn ông thôi để chúng tao đỡ khổ, đỡ mất danh giá? Danh giá là gì khi không mang lại hạnh phúc giản đơn là được yêu cho một con người.
Lê Vân là một người hiểu biết và tôi tin chị hiểu thế nào là hạnh phúc. Chị có thể lầm lạc trong một ngày một tuần hoặc một tháng chứ không thể lầm lạc cả nửa đời người. Ai sẽ đồng ý với tôi điều này và ai sẽ không đồng ý. Nhưng đồng ý hay không đồng ý thì cũng chẳng có gì quan trọng. Cái điều quan trọng nhất là người ta được theo đuổi những gì người ta tin là hạnh phúc cho dù chẳng bao giờ đến được. Nhưng được hành động vì khát vọng và đức tin của mình đã là một hạnh phúc. Đấy là hạnh phúc của những con người dám sống.
Bây giờ chị đã có một gia đình với người chồng nước ngoài. Đây là cuộc hôn nhân lần thứ ba. Chị đã có hai con. Chồng chị lang thang với công việc và ba bốn tháng mới về với mẹ con chị. Họ sống với nhau chừng mươi ngày với một thứ ngôn ngữ còn nhiều xa lạ. Chồng chị không biết tiếng Việt còn chị không thạo tiếng Anh.
Họ sẽ nói gì với nhau trong những buổi tối ngắn ngủi ấy. Chị chưa bao giờ đặt chân đến mảnh đất quê chồng. Chị chưa bao giờ đòi hỏi người đàn ông kia một tờ hôn thú. Người đàn ông kia cũng chẳng hứa hẹn gì với chị. Và một ngày nào đó, người đàn ông đó có thể rời bỏ chị ra đi. Chị không có quyền giữ người đàn ông ấy lại. Cũng như không ai và không cái gì có quyền giữ chị lại khi mà tất cả đã trở nên nhạt nhẽo. Bởi cuộc đời tưởng rất dài nhưng thực ra vô cùng ngắn ngủi. Nếu người ta tỏ ra đức hạnh nhưng lòng khô cạn và vô cảm thì sống 100 năm phỏng có ích gì.
Trước kia, một người con gái không chồng mà có con thì bị xã hội coi như con hủi. Nhưng ngày nay, rất nhiều người con gái chọn lựa con đường đó. Bởi người đàn ông mà họ yêu, họ dâng hiến và hạnh phúc có thể đã có một gia đình. Họ có thể không phá vỡ cái tổ chức quen thuộc của gia đình: Bố-mẹ-con cái của người đàn ông họ yêu. Nhưng họ không vì thế mà không được quyền dâng hiến và đón nhận hạnh phúc. Sự thật là vậy. Quan niệm mới của xã hội và những điều khoản của luật pháp đã mang lại cho con người nhiều hơn ý nghĩa của hạnh phúc và tự do.
Bây giờ ngày ngày chị giấu mình trong nhà với hai đứa con và những công việc nội trợ. Chị đã bước vào tuổi năm mươi. Chị biết đến một ngày, các con chị sẽ phải trở về một đất nước châu Âu mà cha đẻ chúng chọn làm tổ quốc. Chị sẽ phải đi theo chúng. Chị nói với tôi chị đợi chờ chuyến đi định mệnh ấy. Đợi chờ không bằng hạnh phúc mà bằng sự sợ hãi. Chị sẽ phải rời xa quê hương mình. Dù nơi đó có 9/10 người không chia sẻ và cảm thông với chị thì vẫn là quê hương. Bởi ngoài con người lúc đen lúc đỏ ra, thì nơi quê hương vẫn còn có những ngôi nhà, những con đường, những cái cây, những cơn mưa, những món ăn và những giọng nói của ngôn ngữ mẹ đẻ cho dù cay đắng một lúc nào đó…
Chị nói chuyến đi ấy giống như cái chết. Chị nói với gương mặt quá ít biểu lộ cảm xúc. Nhưng giọng nói của chị lúc đó tôi nghe như một tiếng kêu đau đớn. Ai sẽ hiểu được tình cảm này của chị. Nếu chị chỉ mới mười tám đôi mươi thì chuyến đi như thế dễ dàng hơn nhiều mà có khi còn đầy hấp dẫn. Nhưng chị đã năm mươi tuổi. Một người đàn bà năm mươi tuổi thường mang theo quá nhiều nỗi sợ trong khi một người đàn ông năm mươi vẫn có thể rất hào hứng bắt đầu một chặng mới của cuộc đời kể cả việc hôn nhân.
Tôi đã hình dung nhiều lần cảnh tượng một người đàn bà đã năm mươi tuổi rời bỏ quê hương xứ sở mình về một chốn xa xôi để sống một cuộc sống tràn ngập những xa lạ quanh mình. Những đứa con chị sẽ lớn và chúng sẽ chìm vào cuộc sống riêng tư và lối sống ở một nước châu Âu. Để mỗi tuần và có thể mỗi tháng hoặc lâu hơn nữa mới trở về nhìn mẹ chúng và giơ tay chào chị với một câu tiếng Anh: Hi, Mum.
Chị không phải là người đàn bà châu Âu. Chị là một người đàn bà Việt Nam sinh ra và lớn lên ở chính xứ sở chị đã nửa thế kỷ. Chị không thể chịu đựng nổi một cuộc sống như thế. Chính vậy mà câu nói của chị về chuyến đi sẽ xẩy ra ấy giống như cái chết là một hiện thực.
Viết đến đây tôi nhớ một người lính Tây Ban Nha tham chiến ở Việt Nam như một người lính đánh thuê cho quân đội viễn chinh Pháp. Ông đã bỏ quân đội xâm lược ấy để đi theo những người lính Cụ Hồ. Ông lấy vợ làm ở nhà máy dệt Nam Định. Nhưng vợ con ông bị bom Mỹ giết chết năm 1964. Ông sống độc thân ở Việt Nam một thời gian nhưng khi già ông đã tìm cách trở về Tây Ban Nha. Ông cần được trở về với những gì thân thuộc của tuổi thơ ông. Nhưng vì lý do gì đó mà ông không về được Tây Ban Nha.
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Cuba đã đưa ông về Cuba để ông sống những năm tháng tuổi già. Vì ở Cuba, ông sẽ có cơ hội cảm nhận được gần hơn văn hoá và phong vị đời sống của nơi ông sinh ra và lớn lên mà thiếu những điều ấy tâm hồn ông sẽ đau đớn vô cùng. Tôi không còn nhớ tên Tây Ban Nha của ông. Nhưng tôi nhớ cái tên Việt Nam của ông: ông Nho. Khi còn học ở Cuba, tôi thi thoảng gặp ông Nho ở Đại sứ quán Việt Nam. Và lần nào cũng vậy, tôi chỉ thấy một gương mặt chứa đầy nước mắt của ông. Bởi Cuba dù có gần gũi Tây Ban Nha như thế nào thì cũng không bao giờ là Tây Ban Nha.
Câu chuyện ông Nho tôi kể có thể sẽ là hiện thực được báo trước của chị. Nhưng chị vẫn phải đi dù chị hoàn toàn tin cái hiện thực được báo trước ấy. Đấy là phẩm chất kỳ lạ của mọi người đàn bà. Thiết nghĩ, câu chuyện này sẽ cho chúng ta hiểu thêm về chị.
Tôi hỏi chị nếu bây giờ lại có một người đàn ông đầy uy lực của sự quyến rũ đến trước cửa nhà chị và gọi chị đi thì chị sẽ làm thế nào? Một thoáng rùng mình đi qua con người tưởng giá lạnh và ý chí này. Chị nói chị sợ điều đó xẩy ra. Chị mong điều đó đừng đến nữa. Nhưng nếu điều đó đến thì chị cũng không biết sẽ phải làm thế nào.
Chị có thể đóng cửa quay vào và trốn trong bóng tối của ngôi nhà. Chị cũng có thể bỏ ngôi nhà ấy và chạy theo tiếng gọi vừa hạnh phúc vừa nguy hiểm kia. Chị không thể nói trước một điều gì. Không ai trong chúng ta có thể nói trước điều gì trừ khi trái tim chúng ta đã giá lạnh hoàn toàn. Chính điều này mà tôi tin chị không phải là một người băng giá. Tôi tin chị chỉ rời bỏ những gì nhạt nhẽo và thét lên vì những nhạt nhẽo mà thôi. Và tôi tin chị là một người dám sống cho chính mình, dám đi đến tự do.
Tôi đã từng viết: đi qua máu để đến với tự do đã khó, nhưng đi qua hoa thơm để đến với tự do còn khó hơn. Tất nhiên có không ít người đã nhầm lẫn giữa tự do cá nhân và sự vô trách nhiệm. Lê Vân đã sống như chị muốn. Chị vừa được tự do vươn tay để chạm vào những gì chị tin đó là hạnh phúc và vừa phải ghánh chịu những thách thức và những mất mát đối với riêng chị.
Chỉ chị mới biết được chị hạnh phúc hay không hạnh phúc |
Mọi sự ồn ĩ về cuốn tự truyện đã và đang qua đi. Cả những người mắng nhiếc chị và những người chia sẻ với chị lại bị cuốn vào những câu chuyện của riêng họ. Chỉ còn lại chị với số phận của chị mà chị là người duy nhất quyết định nó. Chỉ chị mới biết được chị hạnh phúc hay không hạnh phúc.
Một người đàn bà từng danh tiếng và vẫn còn nhan sắc giờ im lặng trong ngôi nhà như một người ở nhẫn nại cho những đứa con và người chồng không hôn thú đang nói với chúng ta điều gì? Có người nghĩ đó là sự đọa đày. Có người nghĩ đó là hạnh phúc. Tôi tin đó là hạnh phúc của chị. Hạnh phúc của con cá trong nước và hạnh phúc của một con chim trên trời không khác nhau. Chỉ có một điểm khác là chúng không thể đánh đổi hạnh phúc cho nhau mà thôi. Vì khi đánh đổi thì hạnh phúc của người này ngay tức khắc trở thành nỗi bất hạnh của người khác.
Bởi thế tôi muốn im lặng lắng nghe bước chân một số phận chứ không phán xử số phận ấy. Lê Vân là một số phận vì một số lý do mà chúng ta biết được. Nhưng còn bao số phận như chị chúng ta không biết. Tôi cũng đã từng viết về hạnh phúc trong bài Một buổi chiều của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (Tiền Phong Cuối Tuần số 2): "Hạnh phúc thực sự bền vững là hạnh phúc tự mình ngộ ra trong cõi vô tận của lòng mình. Hạnh phúc mà cứ phải cần cho thiên hạ biết và mang cho thiên hạ bàn luận và đồng ý đâu phải là hạnh phúc. Bởi trong cái gọi là hạnh phúc ấy đã chữa sẵn dục vọng rồi".
Khi tôi viết về cuốn tự truyện của Lê Vân. Tôi gọi chị là một ví dụ đúng cho việc tập nói thật của chúng ta. Dù thế nào thì việc dám nói ra sự thật cũng là điều chúng ta cần suy nghĩ. Chúng ta nói dối hoặc nói vòng vo quá lâu rồi. Đã đến lúc chúng ta phải nói thật cho dù việc nói thật của chúng ta còn có những vụng về và thậm chí bị kết án vì một lý do khác nữa.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói với tôi ông đã đọc bài báo đó và ông đồng ý quan điểm của tôi. Quá nhiều người trong chúng ta luôn luôn hoảng sợ với sự nói thật của mình và hoảng sợ với cả sự nói thật của người khác. Chúng ta thừa biết sự nhạt nhẽo đang gặm nhấm chính chúng ta và những người quanh ta. Nhưng quá nhiều người trong chúng ta đã không dám kêu lên. Đấy chính là điều đáng hổ thẹn.
Theo Nguyễn Quang Thiều
(Trích sách Người - Tác giả: Nguyễn Quang Thiều)