Chiều 13/2 tại Hội trường Quốc hội, Quốc hội nghe Chính phủ báo cáo đề xuất đầu tư tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Theo dự thảo Tờ trình do Bộ GTVT xây dựng, dự án được đề xuất đầu tư trên 9 tỉnh, thành phố, quy mô vốn 203.231 tỷ đồng (gần 8,4 tỷ USD), sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn nước ngoài (vay Chính phủ Trung Quốc) và vốn hợp pháp khác.
Theo cơ quan soạn thảo, dự án được đề xuất xây dựng nhằm hiện thực hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị và triển khai thực hiện các quy hoạch.
Đường sắt đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng có tổng hơn 8,36 tỷ USD, có vay Trung Quốc
Bộ trưởng Bộ GTVT Trần Hồng Minh thừa ủy quyền của Thủ tướng, trình bày Tờ trình xin ý kiến của Quốc hội về chủ trương đầu tư đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng (Ảnh: QH.VN).
Hiện thực hóa thỏa thuận hợp tác chiến lược, tăng cường kết nối quốc tế và đáp ứng nhu cầu vận tải trên hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; tái cơ cấu thị phần vận tải phù hợp lợi thế từng phương thức, góp phần giảm chi phí logistics.
Bên cạnh đó cải tạo ra thị trường xây dựng, tạo tiền đề để phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ, phát triển phương thức vận tải bền vững, hiện đại, thân thiện, góp phần giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Theo Tờ trình của Chính phủ, việc xây dựng dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải nội địa, liên vận quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc; tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế trên hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng bảo đảm kết nối hiệu quả mạng lưới đường sắt trong nước và quốc tế, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Về quy mô đầu tư, Bộ GTVT giải trình đây là dự án đường sắt điện khí hóa khổ 1.435 mm, vận chuyển chung hành khách và hàng hóa. Tuyến chính đoạn từ ga Lào Cai Mới đến ga Nam Hải Phòng tốc độ thiết kế 160 km/h, đoạn qua khu đầu mối Hà Nội tốc độ thiết kế 120 km/h, các đoạn nối, tuyến nhánh tốc độ thiết kế 80 km/h.
Về công nghệ, sử dụng công nghệ đoàn tàu động lực tập trung cho tàu khách và tàu hàng; hệ thống thông tin, tín hiệu tương đương với hệ thống đang sử dụng tại một số tuyến đường sắt vận chuyển chung hành khách và hàng hóa trong khu vực.
Phương án thiết kế, hướng tuyến được nghiên cứu, lựa chọn bảo đảm ngắn nhất, thẳng nhất có thể, sử dụng 3 loại kết cấu chính trên tuyến (trong đó: kết cấu cầu chiếm khoảng 29% chiều dài tuyến, hầm khoảng 7% và nền đất khoảng 64%) bảo đảm phù hợp với các quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hạn chế đi qua các khu vực nhạy cảm về môi trường tự nhiên, xã hội, đất quốc phòng; hạn chế khối lượng GPMB, bảo đảm kết nối thuận lợi với các tuyến đường sắt khu vực đầu mối Hà Nội, đường sắt kết nối Trung Quốc.
Công trình dự kiến có 18 ga (bao gồm 03 ga lập tàu, 15 ga hỗn hợp). Ngoài ra, để thực hiện các tác nghiệp kỹ thuật phục vụ chạy tàu, dự kiến bố trí 13 trạm tác nghiệp kỹ thuật. Quá trình khai thác, khi nhu cầu nhu cầu vận tải tăng lên sẽ nghiên cứu, nâng cấp một số trạm tác nghiệp kỹ thuật thành ga hỗn hợp và đầu tư bổ sung các ga khi có nhu cầu.
Về tổng vốn đầu tư, Chính phủ tính toán sơ bộ tổng mức đầu tư: khoảng 203.231 tỷ đồng (khoảng 8,369 tỷ USD) từ nguồn vốn cho ngân sách nhà nước (trung ương, địa phương); nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài (vay Chính phủ Trung Quốc) và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Về hiệu quả, việc đầu tư Dự án sẽ mang lại những lợi ích cho nền kinh tế: Tạo tiền đề, động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đáp ứng nhu cầu vận tải, tái cơ cấu vận tải theo hướng phát huy tối đa lợi thế của từng phương thức; mở ra không gian phát triển kinh tế mới, nguồn lực mới thông qua khai thác hiệu quả quỹ đất; phát triển công nghiệp xây dựng, công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ; phát triển đô thị, du lịch, dịch vụ; giảm ô nhiễm môi trường; giảm tai nạn giao thông và tạo công ăn việc làm.
Theo thiết kế, điểm đầu tuyến được xây dựng tại vị trí kết nối đường ray qua biên giới giữa ga Lào Cai mới và ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc); điểm cuối tại khu bến Lạch Huyện. Chiều dài tuyến chính khoảng 390,9 km và 03 tuyến nhánh khoảng 27,9 km.
Dự án thực hiện đi qua 9 tỉnh, thành phố gồm Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng.
"Băn khoăn" việc Nhà nước phải hỗ trợ 109 triệu USD/ năm năm đầu để cho chi phí bảo trì
Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ về dự án này, ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, theo Tờ trình của Chính phủ, dự kiến trong 5 năm đầu tiên khai thác, doanh thu dự kiến chỉ bù đắp chi phí vận hành, bảo trì, phương tiện, Nhà nước cần hỗ trợ sơ bộ khoảng 109,36 triệu USD trong 5 năm cho chi phí bảo trì kết cấu hạ tầng từ nguồn vốn sự nghiệp kinh tế bố trí cho hệ thống đường sắt như bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia hiện nay.
Ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (Ảnh: QH.VN).
Ngoài ra, Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam dự kiến trong 4 năm đầu khai thác cũng sẽ phải bù lỗ khoảng 778 triệu USD, như vậy, riêng 2 dự án này Nhà nước cần hỗ trợ sơ bộ khoảng 887,36 triệu USD. Do đó, UBKT đề nghị đánh giá tổng thể hiệu quả của các dự án đường sắt dự kiến sẽ đầu tư và đánh giá kỹ lưỡng phương án tài chính, các tác động trong quá trình vận hành, khai thác của các dự án để giảm thiểu các rủi ro về sau.
Bên cạnh đó, dự kiến tuyến đường sắt hiện hữu (khổ 1.000 mm) sẽ đảm nhận vận tải hành khách nội địa, du lịch chặng ngắn, vận chuyển một số chủng loại hàng hóa có sẵn chân hàng kết nối trực tiếp với tuyến đường sắt. Một số ý kiến cho rằng, với ưu thế của Dự án sau khi hoàn thành sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của tuyến đường sắt hiện hữu và các tuyến đường bộ cao tốc song hành, do đó đề nghị bổ sung các kịch bản khai thác và giải pháp trong trường hợp phải dừng khai thác tuyến đường sắt hiện hữu do thiếu hiệu quả.
Liên quan đến nguồn vốn, Uỷ ban Kinh tế khẳng định, dự án có quy mô và tổng mức đầu tư rất lớn, trong kỳ trung hạn 2021 - 2025, nhu cầu vốn cho Dự án khoảng 128 tỷ đồng đã được Chính phủ cân đối trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu vốn khoảng 177.282 tỷ đồng và giai đoạn 2031 - 2035, nhu cầu vốn khoảng 25.821 tỷ đồng.
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế, nguồn vốn cho Dự án được Chính phủ kiến nghị sử dụng nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài và các nguồn vốn hợp pháp khác, đồng thời đề xuất một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt như: không thẩm định khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện Dự án, cho phép Thủ tướng Chính phủ được quyết định phát hành trái phiếu Chính phủ, huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi nước ngoài, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương hằng năm (nếu có) và các nguồn vốn hợp pháp khác để bảo đảm tính phù hợp, khả thi cho Dự án.
Vì vậy, Uỷ ban Kinh tế cho biết: Các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt này đã được Quốc hội cho phép áp dụng trong thời gian qua và đã được cấp có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến, do đó kiến nghị của Chính phủ là có cơ sở. Tuy nhiên, đề nghị trong quá trình triển khai, thực hiện cần tuân thủ nguyên tắc bảo đảm các cân đối vĩ mô và an toàn nợ công quốc gia.
Nguồn: Báo điện tử DÂN VIỆT