Từ bỏ gia đình êm ấm, vào vùng đất "chó ăn đá, gà ăn sỏi" ở miền Trung để bắt đầu với hai bàn tay trắng.

Không vợ, không con, không họ hàng thân thích nhưng anh nuôi hơn 60 đứa trẻ bị bỏ rơi với một tấm lòng hiếm có. “Không ít người gọi tôi là thằng gàn, thằng dở… đi lo chuyện bao đồng” - anh cười.

Không vợ mà có 60 con

 Anh là Lê Trung Thực (SN 1967, Việt Trì, Phú Thọ). Thực tốt nghiệp trường Văn hóa Nghệ thuật sau đó tham gia vào một đoàn văn công lưu diễn nhiều nơi. Trong những ngày tháng nay đây mai đó, Thực đã bắt gặp nhiều phận người éo le, bị chính những người thân chối bỏ.

 Anh vào Thành phố Vinh, Nghệ An rồi làm thầy dạy cắt may cho một trung tâm dạy nghề. Ở trung tâm chủ yếu là các em học sinh tàn tật, thiểu năng và con em gia đình chính sách. Được gần gũi, nghe tâm sự về hoàn cảnh, cũng như khát vọng của các em, tự trong sâu thẳm trái tim Thực đã nhen nhóm những ý tưởng...

 Năm 2000 anh quyết định chuyển từ Vinh về Đô Lương (Nghệ An) với hai bàn tay trắng và hai mươi đứa trẻ không còn ai thân thích. Không có nhà cửa, không một sự giúp đỡ, anh tự thuê phòng trọ, thuê thêm ba cô giáo để trông hai mươi đứa trẻ. 

Anh kể: “Hồi đấy, phải hằng ngày đối mặt với tiền trọ, tiền lương cho cô trông trẻ và miếng ăn cho hơn hai chục con người là những ngày khó khăn nhất trong cuộc đời tôi”.

 Cho đến bây giờ, khi đã là giám đốc trung tâm dạy nghề, anh vẫn bàng hoàng nhớ lại: “Tôi nghĩ mình cũng liều thật, đến bây giờ nhiều đêm vẫn còn bị ám ảnh câu nói của đứa con lớn “Bố ơi, nhà mình hết gạo rồi”. Ở đây các em chẳng ai bảo ai, đều đồng loạt gọi anh là bố. Và thời đó, cứ nghe câu nói ấy lòng anh lại quặn thắt nỗi lo, sợ.

Ông giám đốc không vợ và hành trình... nuôi con thiên hạ_0
Anh Thực (phải), bố của hơn 60 đứa trẻ

 Để nuôi hơn hai mươi đứa trẻ mồ côi, ban đầu anh Thực đã làm đủ nghề. Ban ngày anh đi may đồ thuê, tối tranh thủ đi gom sắt vụn nhập cho các mối buôn từ Bắc Ninh, Ninh Bình…để kiếm thêm chút tiền. Đến bây giờ, khi gặp lại anh, những người buôn đồng nát vẫn gọi anh là “anh đồng nát không vợ mà chục con”.

 Ngoài ra, buổi tối anh tranh thủ làm đậu phụ và sáng sớm cùng các cháu lớn hơn đẩy xe đi chợ bán đậu. Anh thắt tạp dề, tay thoăn thoắt cắt đậu bán như một người phụ nữ thực thụ. Những hôm ế hàng, bố con lại ăn đậu phụ với cơm. Làm đậu phụ phải từ 3,4 giờ sáng cho mát đậu đỡ hỏng, có những đêm cả làng ngủ còn mình anh dậy hì hục để có những bìa đậu sáng sớm ra chợ bán.

 Anh kể, những khi nhà trọ đòi tiền thuê nhà, mấy bố con lại ôm chiếu thu dọn đồ đạc ra đi tìm được nhà nào cho trú tạm lại xin vào. Cứ lang thang, một tháng không biết bao nhiêu lần bị đuổi đi như thế.

 Thực nhớ lại đêm giao thừa năm đầu tiên đón Tết tại Đô Lương với hơn hai mươi “đứa con”, có những nhà tốt thương mấy bố con anh nên đã cho ít đồ  như thịt, bánh chưng, mứt…để đón Tết. Mấy bố con để giành đến giao thừa phá cỗ đón năm mới. Nhưng chưa đến nửa đêm, kẻ trộm lẻn vào khuân đi tất cả. 

Anh bảo: “Mấy bố con nhịn cho đến mùng hai Tết, ngày Tết họ không làm chẳng biết đi đâu mà mua gạo ăn. Nhìn khuôn mặt thẫn thờ của con lúc ấy, mình là người vững vàng lắm cũng phải bật khóc”.

 Khi có được số vốn nho nhỏ, anh trình bày với UBND huyện Đô Lương cho phá lò gốm cũ, và từ trên mảnh đất đổ nát ấy anh tự tay mình xây lên mái ấm đầu tiên cho những đứa trẻ mồ côi, tật nguyền.

 Hiện nay, sau gần mười năm, có hơn 60 đứa trẻ mồ côi, bị chối bỏ đã và đang lớn lên trong ngôi nhà của người cha đặc biệt ấy

 Những đứa trẻ lấy lên từ đất

 Anh lại nhớ... Tết năm 2000, khi cái rét như cắt da cắt thịt của đêm cuối năm tràn vào thị trấn bé nhỏ. Mấy bố con anh đang quây quần bên nhau chờ đợi khoảnh khắc giao thừa thì bất chợt xa xa ngoài cánh đồng vẳng lại những tiếng khóc ngặt nghẽo của trẻ sơ sinh.

 Như có linh cảm mách bảo, anh ào chạy về phía nơi có tiếng trẻ khóc. Sau khi vạch từng bụi cây, lật từng gốc rạ, cuối cùng anh cũng tìm một đứa trẻ sơ sinh vừa mới lọt lòng mẹ được quấn vội vã trong một chiếc khăn choàng cũ, da dẻ tím tái vì lạnh và đói. 

Vậy là, mặc cho ngoài kia giao thừa rộn rã, cả trung tâm hôm ấy bỏ cả mâm cỗ, để xúm xít lo cho đứa trẻ. Và ngôi nhà ấm cúng ấy lại có thêm một thành viên.

 Cũng từ đấy, bất cứ lúc nào hễ nghe tin có trẻ bị bỏ rơi là anh lại lặn lội tìm đến, xin được mang về trung tâm để chăm sóc, nuôi dưỡng. Nhiều bệnh viện trong tỉnh biết về trung tâm của anh nên khi có đứa trẻ nào bị bỏ rơi ở viện, họ lại gọi điện nhờ đến anh.

Ông giám đốc không vợ và hành trình... nuôi con thiên hạ_1
“Cách tốt nhất là dạy cho các cháu một cái nghề để các cháu tự nuôi sống bản thân”.

 Thực kể, trong cuộc đời mình, có 2 lần nhặt trẻ bị bỏ rơi về nuôi khiến anh phải ứa nước mắt. Lần đầu tiên là cách đây 4 năm, khi nghe tin ở Bệnh viện Nhi Nghệ An có một cháu gái bị bỏ rơi. Mẹ cháu là một sinh viên, do chót lỡ nên khi vừa sinh xong đã vội vã bỏ rơi đứa con tội nghiệp. Nghĩ mình không vợ, không con, Thực đã nhận cháu bé làm con nuôi và đặt tên cho cháu là Lê Thị Linh Tâm.

 Với mỗi đứa trẻ về với mái ấm của anh, Thực đều cố gắng giữ lại một dấu vết gì đó thật quan trọng để sau này nếu có người cha, người mẹ nào quay lại tìm con, hay những đứa trẻ lớn lên muốn đi tìm bố mẹ. Những vật làm tin ấy anh đều giữ rất cẩn thận.

 Còn lần mới đây nhất là việc nhận cháu Lê Tiến Đại bị úng não thủy khi cháu khoảng 3 tháng tuổi bị bỏ rơi trước cổng trung tâm. Thoạt nhìn thấy hoàn cảnh thương tâm của cháu, ai cũng ái ngại, nhưng rồi anh vẫn quyết tâm đưa bé về. Cuối năm, “còn nước còn tát”, anh đã đưa cháu đi phẫu thuật ở Hà Nội, tốn hàng trăm triệu đồng nhưng vẫn không nề hà, căn ke. Đến nay, đáng mừng là cháu đã có tiến triển tốt. 

Lê Trung Thực chia sẻ, trong hơn 5 năm qua, Trung tâm đã nuôi dưỡng hàng trăm trẻ em bị bỏ rơi, trẻ mồ côi không nơi nương tựa và đã tìm mái ấm trong và ngoài nước cho khoảng 60 cháu.

 Riêng năm 2009, đã có 19 cháu được các nhà hảo tâm nhận làm con nuôi. Hiện nay, hơn 30 cháu đang được chăm sóc với những điều kiện hết sức chu tất.

 Hàng này, Thực dạy nghề may cho các con của mình, liên hệ với những nhà may lớn trong Sài Gòn để đặt hàng hay giới thiệu việc làm cho những đứa con bị tật nguyền. 

Anh bảo: “Mình không nuôi không làm hỏng các cháu mà cách tốt nhất là dạy cho các cháu một cái nghề để các cháu tự nuôi sống bản thân mình để các cháu biết được cách phải làm cho xã hội chấp nhận mình”.

 Ngoài những trẻ nhỏ, trung tâm còn nuôi hai cụ già 93 tuổi đã không còn sức lao động và không có người thân thích. Nhiều đứa con của anh, sau khi lớn lên đã đi lập gia đình và mở những hiệu may riêng. Nhưng cũng có những cháu ở lại trung tâm lại tiếp tục dạy nghề cho các em mới về.

Đến tận bây giờ, sau bao nhiêu đổi thay, anh vẫn nhớ chuyện ban đầu về mảnh đất heo hút này. Đó là chuyện không ít người chép miệng bảo anh là thằng gàn, nhưng khi hiểu việc anh làm cũng có người nhắc đến anh với cử chỉ thân thương. Khi trung tâm đã ổn định anh mong muốn tìm được ai kế thừa mình để tiếp tục nhận và nuôi dạy các cháu bị bỏ rơi.

 Vài năm nữa, anh Thực có tâm nguyện sẽ lui về cửa Phật để thanh thản với một ngôi chùa yên tĩnh. Khi được hỏi nếu vào chùa, một đêm nào đấy lại nghe có tiếng trẻ khóc ngặt nghẽo ngoài cửa thì anh sẽ làm thế nào. Anh cười: “Có lẽ tôi lại phải mở cửa chùa thêm lần nữa…”


Theo VNN.




 

Báo TINTUCVIETDUC-Trang tiếng Việt nhiều người xem nhất tại Đức

- Báo điện tử tại Đức từ năm 1995 -

TIN NHANH | THỰC TẾ | TỪ NƯỚC ĐỨC